THÔNG ĐIỆP FRATELLI TUTTI VỀ TÌNH HUYNH ĐỆ VÀ TÌNH BẰNG HỮU XÃ HỘI

260. Như Thánh Gioan XXIII đã nói: “Không còn có thể nghĩ rằng chiến tranh là phương tiện thích đáng để đòi công lý khi các quyền lợi bị xâm phạm”[243]. Ngài phát biểu điều này trong bối cảnh quốc tế đang trở nên rất căng thẳng bởi chiến tranh lạnh, qua đó nói lên khát vọng hòa bình mạnh mẽ vào thời đó. Ngài nhấn mạnh niềm xác tín rằng các lý do hậu thuẫn cho hòa bình thì mạnh hơn bất cứ tính toán nào gắn với lợi ích riêng và mạnh hơn bất cứ sự tín nhiệm nào đặt vào việc sử dụng vũ khí. Nhưng vì thiếu tầm nhìn về tương lai và thiếu ý thức cùng chia sẻ vận mệnh chung, nên người ta đã không tận dụng được cơ hội do việc kết thúc chiến tranh lạnh mang lại, như lẽ ra phải làm. Trái lại, người ta tiếp tục theo đuổi lợi ích riêng, không lưu tâm đến thiện ích toàn cầu. Thế là một lần nữa bóng ma hãi hùng của chiến tranh lại có đất sống.

261. Mọi cuộc chiến đều khiến cho thế giới trở nên tồi tệ hơn trước. Chiến tranh luôn là thất bại của chính trị và của nhân loại, là sự đầu hàng đáng xấu hổ, là cuộc tháo chạy trước các thế lực gian ác. Chúng ta đừng dừng lại ở các cuộc thương thảo lý thuyết, mà hãy chạm vào các vết thương, đụng đến da thịt của những người đau khổ. Chúng ta hãy nhìn vào biết bao thường dân bị giết hại, họ bị coi là “những tổn thất phụ”. Chúng ta hãy hỏi các nạn nhân. Chúng ta hãy nghĩ tới những người tị nạn, những người chịu hậu quả của phóng xạ nguyên tử hoặc các cuộc tấn công hóa học, những phụ nữ mất con và những đứa trẻ bị thương tật hoặc bị tước mất tuổi thơ. Chúng ta hãy nghe những nạn nhân của bạo lực ấy kể lại sự thật, hãy nhìn vào thực tại bằng con mắt của họ và lắng nghe những câu chuyện của họ bằng con tim rộng mở. Làm như thế, chúng ta mới có thể thấu hiểu vực thẳm của sự ác nơi tâm điểm chiến tranh và sẽ không còn bối rối khi bị coi là ngây thơ vì đã chọn hòa bình.

262. Ngay cả các quy tắc cũng chẳng đủ, nếu chúng ta nghĩ rằng giải pháp cho các vấn đề hiện tại là răn đe đối phương bằng sợ hãi, như đe doạ sử dụng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học. Thật vậy, “nếu chúng ta xem xét các mối đe dọa chính yếu đối với hòa bình và an ninh cùng vô vàn chiều kích của chúng trong thế giới đa cực của thế kỷ XXI này, chẳng hạn như chủ nghĩa khủng bố, các xung đột phi đối xứng, an ninh mạng, các vấn đề môi trường, sự nghèo đói, thì không ít nghi ngờ sẽ nảy sinh liên quan đến sự bất cập của sách lược răn đe hạt nhân như cách ứng phó hiệu quả trước những thách đố này. Những lo ngại này càng lớn hơn khi chúng ta xem xét hậu quả của những thảm họa nhân đạo và môi trường do bất kỳ việc sử dụng vũ khí hạt nhân nào gây ra với những tác động tàn khốc, bừa bãi và không thể kiểm soát được của chúng, theo thời gian và không gian. […] Chúng ta cũng phải tự hỏi rằng sự ổn định dựa trên sợ hãi có bền vững hay không, khi nó có xu hướng làm tăng nỗi sợ hãi và phá hoại các mối tương quan tin cậy giữa các dân tộc. Hòa bình và ổn định quốc tế không thể dựa trên cảm giác an toàn giả tạo, trên sự đe dọa hủy diệt lẫn nhau hoặc hủy diệt hoàn toàn, hay chỉ trên việc duy trì sự cân bằng quyền lực. […] Trong bối cảnh này, mục tiêu cuối cùng của việc loại bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân vừa trở thành một thách đố vừa là một mệnh lệnh đạo đức và nhân đạo. […] Sự tương thuộc và toàn cầu hóa ngày một gia tăng có nghĩa là bất cứ đáp ứng nào của chúng ta đối với mối đe dọa vũ khí hạt nhân, đều phải mang tính tập thể và phối hợp, dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Sự tin tưởng này chỉ có thể được xây dựng thông qua cuộc đối thoại chân thành hướng đến thiện ích chung chứ không phải để bảo vệ các lợi ích ngầm hay lợi ích riêng”[244]. Và với nguồn tài chính đổ vào vũ khí và các chi tiêu quân sự khác, chúng ta hãy thành lập một ngân quỹ toàn cầu[245] để dứt khoát xóa bỏ nạn đói và giúp cho công cuộc phát triển ở các nước nghèo nhất; có như thế, người dân ở đó mới không phải tìm đến các giải pháp bạo lực hoặc gian dối và cũng không cần phải rời bỏ đất nước mình đi tìm một cuộc sống xứng đáng hơn ở nơi khác.

Án tử hình

263. Tuy nhiên, còn có một cách khác để loại trừ tha nhân mà không nhắm vào các quốc gia nhưng nhắm vào các cá nhân. Đó là án tử hình. Thánh Gioan Phaolô II đã tuyên bố rõ ràng và mạnh mẽ rằng: án tử hình là không thỏa đáng xét theo quan điểm luân lý, và không còn cần thiết xét theo quan điểm hình luật[246]. Không thể đi ngược lại lập trường này. Hôm nay, chúng tôi tuyên bố rõ ràng: “không thể chấp nhận án tử hình”[247] và Hội Thánh cương quyết kêu gọi hủy bỏ án tử hình trên toàn thế giới[248].

264. Trong Tân Ước, mặc dù người ta được yêu cầu đừng lấy ác báo ác (x. Rm 12,17.19), nhưng vẫn nhìn nhận nhà cầm quyền cần phải trừng phạt những ai làm điều ác (x. Rm 13,4; 1Pr 2,14). Quả thực, “đời sống của một cộng đồng nhân sinh có tổ chức cần phải có những quy tắc cho cuộc sống chung, mà sự cố tình vi phạm những quy tắc ấy đòi phải bị trừng trị đích đáng”[249]. Nói cách khác, nhà cầm quyền hợp pháp có thể và phải “giáng những hình phạt tương xứng với mức nghiêm trọng của các tội ác”[250] và để bảo đảm cho quyền phán định đó cần phải có “sự độc lập tất yếu trong lĩnh vực luật pháp”[251].

265. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Hội Thánh, một số người đã công khai chống lại án tử hình. Chẳng hạn, Lectantius đã chủ trương rằng: “việc tước bỏ mạng sống con người luôn luôn là điều phi pháp, không có ngoại lệ nào cả”[252]. Đức giáo hoàng Nicolas I cổ võ: “Hãy nỗ lực giải cứu không chỉ những người vô tội khỏi án tử hình, mà cả những người có tội nữa”[253]. Trong phiên tòa xét xử những kẻ sát hại hai linh mục, Thánh Augustinô đã yêu cầu thẩm phán đừng lấy mạng sống của những kẻ sát nhân này với lý lẽ sau đây: “Chúng tôi không phản đối việc quý tòa truất quyền tự do của những kẻ độc dữ này để họ không phạm thêm tội ác. Điều chúng tôi mong ước là công lý được thực hiện thỏa đáng mà không cần tước đi mạng sống hoặc gây bất kỳ thương tích nào trên thân thể họ. Đồng thời, chúng tôi cũng mong ước rằng qua những biện pháp cưỡng chế theo luật định, họ được chuyển biến từ những kẻ phẫn nộ mất lý trí thành những con người tỉnh táo bình tĩnh, từ những kẻ làm điều gian ác thành những con người biết làm điều hữu ích. Cả điều này cũng được coi là sự lên án, nhưng có ai lại không hiểu rằng khi bạo lực hung tàn được kiềm chế và những phương thế cải hối được thi hành, thì phải coi đây là biện pháp mang lại lợi ích hơn là chỉ mang tính trừng phạt… Hãy ngăn chặn điều xấu nhưng đừng quên rằng phải có tình người. Ước chi việc hung ác của kẻ phạm pháp không khiến các ngài cảm thấy vui thích vì được trả thù, nhưng thay vào đó là ước muốn chữa lành những thương tích tâm hồn do những việc xấu kia làm tổn hại”[254].

266. Sợ hãi và oán hận có thể dễ dàng dẫn tới việc nhìn xem sự trừng phạt như một cách trả thù, thậm chí là trả thù tàn độc, thay vì phải là một phần của tiến trình chữa lành và tái hội nhập xã hội. Ngày nay, “trong một số lĩnh vực chính trị và phương tiện truyền thông, thói ưa bạo lực và trả thù, dẫu là thù chung hay riêng, đang được kích động, không chỉ chống lại những kẻ phải chịu trách nhiệm về những tội họ đã phạm, nhưng chống lại cả những người tình nghi phạm pháp, dù có chứng cớ hay không. […] Đôi khi còn có khuynh hướng cố tình tạo ra những kẻ thù, bằng cách tạo ra những nhân vật điển hình tập trung mọi đặc điểm mà xã hội nhận thấy hay suy diễn như là mối đe dọa. Cơ chế tạo thành những hình ảnh này cũng chính là cơ chế cho phép lan truyền những ý tưởng phân biệt chủng tộc vào thời phân biệt chủng tộc đó”[255]. Điều này đặc biệt nguy hiểm khi tại một số nước ngày càng áp dụng biện pháp giam giữ để phòng ngừa, bỏ tù không xét xử, và nhất là án tử hình.

267. Ở đây tôi muốn lưu ý rằng “Thật không thể tưởng tượng được tại sao ngày nay các chính quyền lại không còn cách nào khác ngoài án tử hình để bảo vệ dân chúng khỏi những kẻ hung hăng bất lương”. Điều đặc biệt nghiêm trọng về phương diện này là những cuộc hành quyết được gọi là ngoại tụng hay ngoài pháp luật, vốn là những “tội giết người có chủ ý, do một số chính quyền và những viên chức nhà nước ra tay thực hiện, thường ngụy tạo thành những cuộc đụng độ với các tội phạm hay được báo cáo như hậu quả vô tình của việc sử dụng vũ lực cách hợp lý, cần thiết và cân xứng, đúng theo quy định của pháp luật”[256].

268. “Những luận chứng chống lại án tử hình thì rất nhiều và được nhiều người biết đến. Hội Thánh, vào những dịp thích đáng, đã nhấn mạnh một số luận chứng này, như việc kết án có thể sai lầm cũng như những thể chế toàn trị và độc tài sử dụng hình phạt này như phương thế đàn áp bất đồng chính kiến hay bách hại các nhóm thiểu số tín ngưỡng và văn hóa, tất cả các nạn nhân này đều bị luật pháp của những chế độ nêu trên coi như là ‘những tội phạm’. Tất cả các Kitô hữu và những người có thiện chí ngày nay đều được mời gọi không chỉ đấu tranh để xóa bỏ án tử hình dưới mọi hình thức, dù là xử theo luật pháp hay ngoài luật pháp, mà còn đấu tranh để cải thiện điều kiện lao tù, vì sự tôn trọng nhân phẩm của những người đã bị truất quyền tự do. Tôi muốn liên kết điều này với hình phạt tù chung thân. […] Án tù chung thân là một án tử hình kín đáo”[257].

269. Chúng ta nên nhớ: “ngay cả kẻ sát nhân cũng không bị mất nhân phẩm, và chính Thiên Chúa bảo đảm điều này”[258]. Sự kiên định phi bác án tử hình là dấu chứng có thể cho chúng ta thấy chúng ta ở mức độ nào trong việc nhìn nhận phẩm giá không thể tước bỏ của mỗi người và chỗ đứng của người đó trong hoàn vũ này. Nếu tôi không chối bỏ phẩm giá đó của kẻ xấu xa nhất trong các phạm nhân, tôi sẽ không chối bỏ phẩm giá đó của bất cứ ai. Tôi sẽ để cho mọi người có khả năng chia sẻ hành tinh này với tôi, bất kể mọi dị biệt giữa tôi và họ.

270. Tôi yêu cầu các Kitô hữu nào đang còn do dự về điểm này, và những ai toan nghiêng chiều theo bạo lực dưới mọi hình thức, hãy ghi nhớ những lời trong sách Isaia: “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày” (2, 4). Đối với chúng ta, lời tiên tri này đã hóa thân trong Đức Giêsu Kitô là Đấng, khi thấy một môn đệ toan sử dụng bạo lực, đã cương quyết nói rằng: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Những lời này vang vọng lời cảnh báo xưa: “Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em mình. Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra” (St 9, 5-6). Phản ứng này của Đức Giêsu, phát xuất từ trái tim Ngài, vượt qua khoảng cách hàng bao thế kỷ, lan truyền cho đến hôm nay như một lời kêu gọi trường kỳ.

CHƯƠNG TÁM:
CÁC TÔN GIÁO PHỤC VỤ TÌNH HUYNH ĐỆ TRONG THẾ GIỚI CHÚNG TA

271. Các tôn giáo khác nhau đều góp phần quý giá xây dựng tình huynh đệ và bảo vệ công lý xã hội, khởi đi từ sự tôn trọng mỗi con người như một thụ tạo được Thiên Chúa mời gọi làm con của Ngài. Tín đồ các tôn giáo đối thoại với nhau không chỉ để tỏ ra biết ngoại giao, hòa nhã hay khoan dung. Theo lời các Giám mục Ấn Độ, “mục đích của đối thoại là để thiết lập tình hữu nghị, hòa bình, hòa hợp và để chia sẻ các giá trị và kinh nghiệm tâm linh và đạo đức trong tinh thần mến yêu và tôn trọng sự thật”[259].

NỀN TẢNG TỐI HẬU

272. Là tín hữu, chúng ta tin rằng: nếu không hướng về Chúa, là Cha của mọi người, thì sẽ không có lý do khả tín và vững chắc nào để mời gọi con người sống tình huynh đệ. Chúng ta xác tín rằng: “chỉ với ý thức chúng ta là con chứ không phải là những trẻ mồ côi, thì chúng ta mới có thể sống hòa thuận với nhau”[260]. Vì “tự thân, lý trí có thể nắm bắt được tính bình đẳng giữa con người và thiết lập cộng đồng xã hội dân sự, nhưng lý trí không thể nào tạo nên tình huynh đệ”[261].

273. Về phương diện này, tôi muốn trích dẫn những lời đáng ghi nhớ sau đây: “Nếu không có một chân lý siêu việt, mà khi tuân theo, con người hoàn thành được căn tính của mình, thì không có một nguyên lý nào bảo đảm cho những mối quan hệ đúng đắn giữa con người với nhau. Các lợi ích của giai cấp, của tập thể hay của quốc gia chắc chắn sẽ đặt họ vào thế chống đối lẫn nhau. Nếu người ta không thừa nhận chân lý siêu việt này, thì bạo quyền sẽ thống trị, thế rồi mỗi người sẽ chỉ lo tận dụng hết mức các phương tiện sẵn có để áp đặt lợi ích hay ý muốn của riêng mình, không đếm xỉa gì đến quyền lợi của người khác. […] Vì thế phải thấy rằng chủ nghĩa toàn trị hiện đại có gốc rễ sâu xa từ việc phủ nhận phẩm giá siêu việt của con người, vốn là phản ánh hữu hình của Thiên Chúa vô hình, vì thế, bởi chính bản tính của mình, con người là chủ thể của các quyền lợi không ai được phép xâm phạm – không một cá nhân, tập thể, giai cấp, quốc gia hay nhà nước nào được phép làm như thế cả. Thậm chí đa số của một thành phần xã hội nào đó cũng không được phép xâm phạm những quyền lợi này, bằng cách tự phong, chống lại nhóm người thiểu số”[262].

274. Từ kinh nghiệm đức tin của chúng ta và từ sự khôn ngoan tích lũy qua bao thế kỷ, nhưng cũng từ những bài học thâu lượm từ những yếu kém và thất bại của mình, chúng ta, những tín đồ của các tôn giáo khác nhau, đều biết rằng: chứng tá về Thiên Chúa mang lại lợi ích cho xã hội chúng ta. Nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa bằng một tấm lòng chân thành, miễn là không bị lợi dụng để phục vụ cho các lợi ích ý thức hệ hay các mục đích vị kỷ, giúp chúng ta nhìn ra nhau là những người bạn đồng hành, là anh chị em thực sự với nhau. Chúng ta xác tín rằng: “khi nhân danh một ý thức hệ, là người ta có ý loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi xã hội, rốt cuộc người ta sẽ đi đến chỗ tôn thờ ngẫu tượng, và chẳng bao lâu sẽ lạc đường, đồng thời phẩm giá của họ sẽ bị chà đạp và quyền lợi của họ sẽ bị xâm phạm. Quý vị đã quá rõ sự phủ nhận tự do của lương tâm và tự do tôn giáo đã gây ra biết bao đau khổ, và những vết thương này khiến cho nhân loại trở nên cùng khốn vì thiếu niềm hy vọng và những lý tưởng dẫn đường”[263].

275. Cần phải công nhận rằng “trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến thế giới ngày nay khủng hoảng là chuyện lương tâm con người trở nên chai cứng, là việc xa rời các giá trị tôn giáo và sự thắng thế của chủ nghĩa cá nhân cùng các triết lý duy vật, chủ trương thần thánh hóa con người, cũng như đưa những giá trị thế trần và vật chất lên vị trí những nguyên lý tối cao siêu việt”[264]. Thật là không thể chấp nhận được khi, trong những cuộc tranh luận công khai, chỉ những người quyền thế và các nhà khoa học mới được lên tiếng. Phải dành chỗ cho các suy tư nảy sinh từ các truyền thống tôn giáo, vốn tích chứa kinh nghiệm và khôn ngoan của hàng bao thế kỷ. Vì “các tác phẩm kinh điển tôn giáo có ý nghĩa ở mọi thời đại và có sức năng động”, tuy nhiên trong thực tế, “chúng thường bị khinh thường bởi quan điểm thiển cận của các thứ chủ nghĩa duy lý”[265].

276. Vì những lý do này, trong khi tôn trọng sự tự trị của sinh hoạt chính trị, Hội Thánh không giới hạn sứ mạng của mình chỉ ở lĩnh vực riêng tư. Ngược lại, “Hội Thánh không thể và không được đứng bên lề” trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, cũng không được sao nhãng “việc khơi dậy năng lực tâm linh” có thể góp phần tô điểm làm xã hội thêm xinh tươi[266]. Đúng là các các giáo sĩ không nên tham gia vào chính trị đảng phái vốn là lĩnh vực riêng của hàng giáo dân, nhưng các giáo sĩ cũng không thể khước từ chiều kích chính trị của cuộc hiện sinh[267], vốn bao hàm việc không ngừng chú ý đến thiện ích chung và quan tâm đến việc phát triển con người toàn diện. Hội Thánh “có vai trò xã hội vượt khỏi các hoạt động bác ái và giáo dục của mình”, nhằm thúc đẩy “sự thăng tiến của con người và của tình huynh đệ phổ quát”[268]. Hội Thánh không có ý tranh giành quyền lực trần thế, nhưng tự cống hiến như một “gia đình giữa các gia đình, ấy là gia đình Hội Thánh, sẵn sàng làm chứng cho thế giới hôm nay về lòng tin, về niềm hy vọng và về tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với những ai được Người yêu thương cách riêng.

Bài này đã được xem 1000 lần!

Pages ( 15 of 18 ): <1 ... 1314 15 161718>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]