Một ngôi nhà luôn mở rộng cửa
Hội Thánh là một ngôi nhà luôn mở rộng cửa, bởi vì Hội Thánh là mẹ”[269]. Và noi gương Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, “chúng ta muốn là một Hội Thánh phục vụ, biết ra khỏi nhà và ra khỏi nơi phụng tự của mình, ra khỏi phòng thánh của mình, hầu có thể đồng hành với đời, nâng đỡ niềm hy vọng, làm dấu chỉ cho sự hiệp nhất, […] xây dựng những cây cầu, phá đổ các bức tường, gieo những hạt giống hòa giải”[270].
Căn tính Kitô giáo
277. Hội Thánh quý trọng đường lối hoạt động của Thiên Chúa trong các tôn giáo khác, và “không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo ấy. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết của các tôn giáo […] vẫn thường mang lại một tia sáng của chính chân lý đang chiếu soi tất cả mọi người”[271]. Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta không thể giấu giếm mà không nói lên rằng: “Nếu cung nhạc của Tin Mừng thôi âm vang trong cõi lòng chúng ta,chúng ta sẽ đánh mất: niềm vui trào tuôn từ lòng nhân ái, tình thương trìu mến nảy sinh từ lòng trông cậy, khả năng hòa giải bắt nguồn từ nhận thức rằng chúng ta đã được tha thứ và sai đi. Nếu điệu nhạc của Tin Mừng thôi réo rắt trong các căn nhà của chúng ta, nơi quảng trường, nơi làm việc, nơi hoạt động chính trị và tài chính, thì chúng ta sẽ không còn nghe thấy giai điệu thôi thúc chúng ta bảo vệ phẩm giá của mỗi người”[272]. Những người khác uống từ những nguồn mạch khác. Còn đối với chúng ta, suối nguồn nhân phẩm và tình huynh đệ nằm trong Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Từ đó, “Phát sinh ưu tiên hàng đầu, trong suy tư Kitô giáo và trong hoạt động của Hội Thánh, đó là các mối tương quan, sự gặp gỡ với mầu nhiệm thánh thiêng của tha nhân, sự thông hiệp phổ quát với toàn thể gia đình nhân loại như ơn gọi của mọi người”[273].
278. Hội thánh được kêu gọi thâm nhập mọi thực tại và đã hiện diện suốt bao thế kỷ ở khắp nơi trên thế giới, đó chính là ý nghĩa của từ “công giáo”. Thế nên, từ kinh nghiệm tự thân về ân sủng và tội lỗi, Hội thánh có thể thấu hiểu vẻ đẹp của lời mời gọi sống tình yêu phổ quát. Thực vậy, “tất cả những gì thuộc về con người đều có liên quan đến chúng ta. […] Ở bất cứ nơi đâu, khi hội đồng các dân các nước họp nhau lại, để xác lập về quyền lợi và nghĩa vụ của con người, thì chúng ta luôn lấy làm vinh dự được phép cùng tham gia với họ”[274]. Đối với nhiều hữu, hành trình của tình huynh đệ này cũng có một Người Mẹ, mang tên là Maria. Đức Maria đã nhận lãnh tình mẫu tử phổ quát này dưới chân thập giá (x. Ga 19,26). Mẹ không chỉ lưu tâm đến Chúa Giêsu, mà còn lưu tâm đến cả “những người còn lại trong dòng dõi của Mẹ” (x. Kh 12,17). Bằng quyền năng của Chúa phục sinh, Mẹ muốn hạ sinh một thế giới mới, nơi tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau, nơi có chỗ cho tất cả những ai bị xã hội loại bỏ, nơi công lý và hòa bình rực rỡ ánh huy hoàng.
279. Là Kitô hữu, chúng ta đòi hỏi cho mình phải được hưởng tự do trong những quốc gia ở đó Kitô hữu là thiểu số, như chính chúng ta tạo thuận lợi cho những người ngoài Kitô giáo tại những nơi họ là thiểu số cũng được hưởng tự do. Trên hành trình tiến tới tình huynh đệ và hòa bình, không được phép bỏ quên một quyền căn bản của con người. Đó là quyền tự do tôn giáo cho các tín đồ của mọi tôn giáo. Quyền tự do này cho thấy chúng ta có thể “xây dựng một sự hòa thuận tốt đẹp giữa các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Nó cũng chứng thực rằng những gì chúng ta có chung với nhau thì rất nhiều và quan trọng đến nỗi chúng ta có thể tìm ra phương cách chung sống yên hàn, trật tự và hòa bình, qua việc chấp nhận những khác biệt của nhau và vui mừng được là anh chị em với nhau, vì chúng ta đều là con của một Thiên Chúa duy nhất”[275].
280. Đồng thời, chúng ta cầu xin Chúa củng cố sự hiệp nhất trong Hội Thánh, qua sự hiệp nhất này Hội Thánh trở nên phong phú nhờ những dị biệt đã được hòa giải bởi tác động của Chúa Thánh Thần. Vì “chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13), trong đó mỗi chi thể đều góp phần của mình. Như Thánh Augustinô đã nói: “Tai nhìn qua mắt, và mắt nghe bằng tai”[276]. Mặt khác, việc cấp bách là phải tiếp tục làm chứng cho hành trình gặp gỡ giữa các hệ phái Kitô giáo khác nhau. Chúng ta không thể nào quên được mong ước của Đức Kitô: “Chớ gì tất cả chúng nên một” (Ga 17,21). Trước lời kêu gọi này, chúng ta đau buồn mà thú nhận rằng tiến trình toàn cầu hóa vẫn còn thiếu sự đóng góp có tính tiên tri và tâm linh do sự hiệp nhất các Kitô hữu mang lại. Ấy vậy, “mặc dù còn đang trên đường hướng đến sự hiệp thông trọn vẹn, thì ngay từ bây giờ chúng ta vẫn có nhiệm vụ phải đưa ra một chứng từ chung về tình yêu của Thiên Chúa dành cho hết mọi người bằng cách cộng tác với nhau trong việc phục vụ nhân loại”[277].
TÔN GIÁO VÀ BẠO LỰC
281. Có thể tạo nên một tiến trình hòa bình giữa các tôn giáo. Xuất phát điểm của tiến trình đó phải là cách nhìn của Thiên Chúa. “Thiên Chúa không thấy bằng đôi mắt nhưng bằng trái tim của Ngài. Và Thiên Chúa yêu hết mọi người, bằng một tình yêu duy nhất, bất kể họ thuộc tôn giáo nào. Dẫu họ có là vô thần, thì Ngài cũng vẫn yêu như vậy. Đến ngày tận thế, khi có đủ ánh sáng để nhìn xem mọi sự trên trần thế này đúng như chúng là, ta sẽ vô cùng ngạc nhiên”[278].
282. Do đó, “các tín hữu cần phải tìm cơ hội để đối thoại và cùng nhau phục vụ cho thiện ích chung và cho việc thăng tiến những người nghèo khổ nhất. Đây không phải là chuyện giảm nhẹ hay che giấu những xác tín sâu xa nhất của chúng ta khi gặp gỡ những người không suy nghĩ giống chúng ta. […] Bởi lẽ căn tính chúng ta càng sâu xa, càng vững vàng, càng phong phú, thì chúng ta càng có khả năng phong phú hóa người khác bằng những đóng góp riêng của mình”[279]. Là tín hữu, chúng ta được thôi thúc trở về nguồn, ngõ hầu tập trung vào những gì là thiết yếu, đó là kính thờ Thiên Chúa và yêu thương người thân cận, không để cho có điều nào đó trong giáo huấn của chúng ta, vì tách rời khỏi bối cảnh cội nguồn, dẫn đến các hình thức khinh miệt, hận thù, bài ngoại hay chối từ tha nhân. Sự thật là bạo lực chẳng có nền tảng nào trong các xác tín tôn giáo căn bản của chúng ta, mà chỉ có trong việc giải thích cách lệch lạc các niềm xác tín ấy.
283. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong chân thành và khiêm nhu “không sinh ra kỳ thị, hận thù và bạo lực, nhưng đem lại sự tôn trọng tính thánh thiêng của sự sống, sự tôn trọng phẩm giá và tự do của tha nhân, và sự dấn thân hết tình lo cho hạnh phúc của mọi người”[280]. Quả thực, “ai không yêu thương là không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Vì lý do này, “chủ nghĩa khủng bố là đáng bị ghét bỏ, vì nó đe dọa sự an toàn của con người – dù ở Đông hay Tây, Nam hay Bắc – và gieo rắc kinh hoàng, sợ hãi và bi quan, nhưng những điều này không phát xuất từ tôn giáo, ngay cả khi các kẻ khủng bố có lợi dụng danh nghĩa tôn giáo. Đúng hơn, chính do việc tích tụ dần những diễn giải sai lạc về các bản văn tôn giáo, và do hậu quả của những chính sách gây ra đói nghèo, bất công, áp bức và ngạo mạn. Bởi đó cần phải ngăn chặn sự hậu thuẫn của những phong trào khủng bố, bằng cách cắt nguồn cung cấp tài chánh, vũ khí, kế hoạch hoặc sự tuyên truyền biện minh và che đậy của truyền thông, đồng thời phải coi tất cả những điều này như những tội ác quốc tế đe dọa an ninh và hòa bình thế giới. Cần phải lên án nạn khủng bố như thế dưới mọi hình thái và cách thức biểu lộ của nó”[281]. Các xác tín tôn giáo về ý nghĩa thánh thiêng của sự sống con người cho phép chúng ta “thừa nhận những giá trị nền tảng của nhân tính chung, những giá trị mà nhân danh chúng, người ta có thể và phải cộng tác, xây dựng và đối thoại, tha thứ và phát triển; và như thế cũng cho phép quy tụ các giọng ca khác nhau để cùng hát lên một bài ca tuyệt mỹ và hòa hợp, thay vì những tiếng kêu cuồng tín của hận thù”[282].
284. Đôi khi bạo lực mang tính bảo thủ cực đoan được dung dưỡng trong ít nhiều nhóm, thuộc bất cứ tôn giáo nào, bởi sự bất cẩn của những người lãnh đạo. Tuy nhiên, “huấn lệnh hòa bình được khắc sâu trong các truyền thống tôn giáo mà chúng ta đại diện. […] Trên cương vị những nhà lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được mời gọi trở thành ‘những người đối thoại’ thực sự, để hợp tác trong việc kiến tạo hòa bình, không phải như những kẻ môi giới, nhưng như những người hòa giải đích thực. Những kẻ môi giới tìm cách cho mọi người được hưởng phần giảm giá, nhưng rốt cuộc chính những kẻ môi giới thu được những món lợi lớn hơn nhiều. Trái lại, các nhà hòa giải là những người không mưu cầu cho mình bất cứ điều gì, nhưng quảng đại bỏ công sức ra vận động và chỉ biết tìm mối lợi duy nhất là hòa bình. Mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên nghệ nhân kiến tạo hòa bình, bằng cách hợp nhất chứ không chia rẽ, dập tắt hận thù chứ không nuôi dưỡng, mở ra những nẻo đường đối thoại chứ không xây thêm những bức tường ngăn cách”[283].
Lời kêu gọi khẩn khoản
285. Trong cuộc hội ngộ đầy tình huynh đệ của tôi với Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb, khiến tôi rất vui mỗi khi nhớ lại, “chúng tôi kiên quyết tuyên bố rằng: các tôn giáo không bao giờ cổ võ chiến tranh, không kích động lòng hờn căm, sự thù địch và chủ nghĩa cực đoan, cũng không xúi giục bạo lực hoặc đổ máu. Những tai ách này là hậu quả của sự sai trệch khỏi giáo huấn tôn giáo. Chúng phát xuất từ sự thao túng chính trị của các tôn giáo và từ những diễn giải của các nhóm người trong tôn giáo, mà đôi lúc trong lịch sử, họ đã lợi dụng ảnh hưởng của tình cảm tôn giáo trong lòng các thiện nam tín nữ […]. Thực ra, Thiên Chúa là Đấng Toàn năng, không cần bất cứ ai bảo vệ, và cũng không muốn ai nhân danh Ngài mà khủng bố thiên hạ”[284]. Vì thế, ở đây tôi xin nhắc lại lời kêu gọi đắp xây hòa bình, công lý và tình huynh đệ mà chúng tôi đã cùng nhau lên tiếng:
“Nhân danh Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng hết thảy mọi người vốn bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và phẩm giá, cùng mời gọi họ sống với nhau như anh chị em, sinh sản cho đầy mặt đất và loan truyền những giá trị thiện hảo, tình yêu và hòa bình trên khắp địa cầu;
“Nhân danh những sinh mạng vô tội mà Thiên Chúa đã cấm sát hại, khi khẳng định rằng ai giết hại một người thì giống như giết hại cả nhân loại, còn ai cứu sống một người thì giống như cứu sống cả nhân loại;
“Nhân danh những người nghèo khổ, những người bần cùng, những người túng quẫn và những người bị loại trừ mà Thiên Chúa đã truyền cho chúng ta phải giúp đỡ như nghĩa vụ của mỗi người, nhất là những người lắm của nhiều tiền;
“Nhân danh những trẻ mồ côi, những người goá bụa, những người tị nạn và những kẻ lưu vong phải sống xa quê hương xứ sở; nhân danh tất cả những nạn nhân của chiến tranh, đàn áp và bất công; nhân danh những người yếu kém, những người sống trong sợ hãi, những tù nhân chiến tranh và những người bị hành hạ tra tấn ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, không phân biệt;
“Nhân danh những dân tộc bị mất an ninh, bình an và khả năng sống chung, trở thành nạn nhân của hủy diệt, điêu tàn và chiến tranh;
“Nhân danh tình huynh đệ nhân loại bao trùm tất cả mọi người, hiệp nhất mọi người và làm cho họ bình đẳng;
“Nhân danh tình huynh đệ này đang bị xâu xé bởi các chính sách cực đoan và chia rẽ, bởi các hệ thống lợi nhuận vô độ, hoặc bởi những xu hướng ý thức hệ đầy hận thù đang thao túng các hoạt động cũng như số phận của con người;
“Nhân danh sự tự do mà Thiên Chúa ban cho hết mọi người, tạo dựng nên họ có tự do, và làm cho họ thành đặc biệt quý trọng nhờ ân ban này;
“Nhân danh công lý và lòng thương xót, những nền tảng của sự thịnh vượng và viên đá góc của đức tin;
“Nhân danh tất cả những ai thành tâm thiện chí hiện diện khắp hang cùng ngõ hẻm trên mặt đất này;
“Nhân danh Thiên Chúa và mọi điều đã đề cập trên đây, [chúng tôi] tuyên bố lấy văn hóa đối thoại làm đường lối, sự hợp tác hỗ tương làm quy tắc ứng xử, sự hiểu biết lẫn nhau làm phương pháp và chuẩn mực”[285].
286. Những lúc trầm lắng suy tư về tình huynh đệ phổ quát này, tôi cảm thấy được thúc đẩy, cách riêng là bởi Thánh Phanxicô Assisi, nhưng cũng được thúc đẩy bởi nhiều anh chị em khác không thuộc Công giáo như Martin Luther King, Desmond Tutu, Mahatma Gandhi cùng nhiều vị khác nữa. Tuy nhiên, tôi muốn kết luận bằng cách đề cập đến một người nữa, là người có một niềm tin sâu xa, khởi đi từ trải nghiệm mãnh liệt về Thiên Chúa, đã thực hiện một hành trình biến đổi theo hướng cảm nhận mình là anh em của tất cả mọi người. Tôi muốn nói về Chân phước Charles de Foucauld.
287. Chân phước Charles quy hướng lý tưởng dâng hiến trót cả bản thân cho Thiên Chúa vào việc tự đồng hóa mình với những người nghèo khổ, những người bị bỏ rơi giữa sa mạc Châu Phi. Trong bối cảnh này, ngài đã diễn tả niềm khao khát được cảm nghiệm mọi người, bất kỳ ai, cũng đều là anh em của ngài[286], và ngài yêu cầu một người bạn: “Hãy xin Chúa cho tôi thực sự được làm người anh em của tất cả mọi người trong xứ sở này”[287]. Sau cùng, ngài muốn được là “người anh em của mọi người”[288]. Tuy nhiên, chỉ bằng cách tự đồng hóa với người nhỏ bé nhất, ngài mới trở thành người anh em của hết mọi người. Xin Thiên Chúa khơi dậy ước nguyện này nơi mỗi người chúng ta. Amen.
Kinh nguyện dâng lên Đấng Hóa Công
Lạy Chúa là Cha của gia đình nhân loại chúng con, Chúa đã tạo dựng mọi người chúng con với cùng một phẩm giá, xin tuôn đổ vào lòng chúng con tinh thần huynh đệ và khơi dậy nơi chúng con ước mơ lại được gặp gỡ nhau, ước mơ đối thoại với nhau, và ước mơ về công lý và hòa bình.
Xin thúc đẩy chúng con kiến tạo những xã hội lành mạnh hơn và một thế giới có phẩm giá hơn, là thế giới không còn đói nghèo, bạo lực và chiến tranh.
Xin cho trái tim chúng con rộng mở với mọi dân tộc và mọi quốc gia trên địa cầu, để chúng con nhận biết sự thiện hảo và mỹ lệ Chúa đã gieo trồng nơi mỗi người chúng con, từ đó chúng con thắt chặt những mối dây liên kết, xây dựng những dự án chung, và chia sẻ những nỗi niềm hy vọng. Amen.
Kinh nguyện đại kết
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Từ Ái, từ sự thông hiệp sâu xa của đời sống thần linh, xin hãy tuôn đổ trên chúng con dòng thác yêu thương huynh đệ.
Xin ban cho chúng con tình yêu được biểu lộ qua những việc Chúa Giêsu đã làm, trong Gia đình thánh tại Nazarét, và trong cộng đoàn Kitô hữu thuở sơ khai. Xin cho Kitô hữu chúng con biết sống Tin Mừng, nhận ra Chúa Kitô nơi mỗi tha nhân, nhận ra Người bị đóng đinh trong nỗi thống khổ của những kẻ bị bỏ rơi và những người bị quên lãng trong thế giới này, cũng như nhận ra Chúa phục sinh nơi mỗi anh chị em đang gượng đứng lên. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!
Hãy tỏ cho chúng con vẻ diễm lệ của Chúa, phản ánh nơi mọi dân tộc trên mặt đất này, để cho chúng con lại nhận biết rằng tất cả mọi người đều quan trọng và cần thiết, là những gương mặt khác nhau của cùng một nhân loại được Thiên Chúa hết mực yêu thương. Amen.
Công bố tại Assisi, bên mộ Thánh Phanxicô, ngày 3 tháng Mười, áp lễ kính Thánh nhân, năm 2020, năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.
PHANXICÔ
(Bản cập nhật ngày 29/03/2021)
WHĐ (29.04.2021)
……………………………………………………
PHỤC LỤC:
[1] Admonitiones (Huấn ngôn), 6, 1.
[2] Ibid., 25.
[3] Thánh Phanxicô Assisi, Regula non bullata (Luật Không Sắc Chỉ), 16: 3.6.
[4] Eloi Leclerc, O.F.M., Exil et tendresse, Éd. Franciscaines (1962), p. 205.
[5] Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân loại vì Hoà bình thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (04/02/2019): L’Osservatore Romano, 4–5/02/2019, tr. 6.
Bài này đã được xem 992 lần!