THÔNG ĐIỆP FRATELLI TUTTI VỀ TÌNH HUYNH ĐỆ VÀ TÌNH BẰNG HỮU XÃ HỘI

19. Việc giảm tỉ lệ sinh đẻ, dẫn đến dân số bị lão hóa, cùng với việc người già bị bỏ mặc trong đơn độc tủi buồn, cho thấy rằng chúng ta đã quy tất cả về cho mình, chỉ có lợi ích cá nhân của chúng ta là quan trọng. Vì thế, “đối tượng thường bị thải bỏ không chỉ là thực phẩm hoặc những thứ dư thừa mà là chính con người”[14]. Chúng ta đã thấy những gì mà người già cả tại một số nơi trên thế giới đã phải hứng chịu vì virus Corona. Lẽ ra họ đã không phải chết như thế. Nhưng trong thực tế, những điều tương tự đã từng xảy ra vì những đợt nắng nóng và trong những tình huống khác, người già đã bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Chúng ta không nhận ra rằng khi cô lập người già và bỏ mặc họ cho người khác chăm sóc, không có sự gần gũi và quan tâm thích đáng của các thành viên trong gia đình, là chúng ta đã làm cho chính gia đình bị biến dạng và bần cùng. Hơn nữa, rốt cuộc điều này còn tước mất của người trẻ sự nối kết cần thiết với nguồn cội và với di sản khôn ngoan mà họ không thể tự mình đạt được.

20. Việc loại bỏ này tỏ lộ ra bằng nhiều cách, chẳng hạn nỗi ám ảnh phải cắt giảm chi phí lao động mà không tính đến những hậu quả tai hại của nó, bởi lẽ nạn thất nghiệp kéo theo sẽ làm gia tăng tầng lớp nghèo[15]. Thêm vào đó, việc loại trừ này mang lấy những hình thức tệ hại tưởng như không còn tồn tại, như tệ phân biệt chủng tộc, cứ ẩn nấp và rồi lại liên tục xuất hiện. Những biểu hiện phân biệt chủng tộc vẫn còn khiến chúng ta xấu hổ khi cho thấy những gì được gọi là tiến bộ xã hội thì không có thực chất cũng không bền vững.

21. Một số quy định kinh tế tỏ ra hữu hiệu cho việc tăng trưởng, nhưng đối với việc phát triển con người toàn diện thì không[16]. Gia tăng sự giàu có, nhưng kèm theo những bất bình đẳng; và như thế những hình thức nghèo đói mới lại nảy sinh”[17]. Khi cho rằng thế giới ngày nay đã xóa đói giảm nghèo ấy là người ta đo lường sự nghèo đói với những tiêu chuẩn cũ không hề thích ứng với những thực tại ngày nay. Thực vậy, chẳng hạn trước đây người ta không xem việc thiếu điện năng là dấu hiệu nghèo đói cũng như là nguồn gốc của sự lầm than khổ cực. Sự nghèo đói luôn phải được hiểu và xem xét trong bối cảnh những gì có thể thực hiện vào thời điểm lịch sử nhất định.

Nhân quyền không đủ phổ quát

22. Rõ ràng là nhiều khi trong thực tế, không có bình đẳng nhân quyền cho hết mọi người. Việc tôn trọng nhân quyền “là […] điều kiện tiên quyết để một quốc gia có thể phát triển về mặt xã hội và kinh tế. Khi phẩm giá con người được tôn trọng, và khi quyền con người được công nhận và bảo đảm, thì năng lực sáng tạo và mối tương quan với người khác sẽ được triển nở, đồng thời nhân cách con người sẽ được phát huy qua những việc làm nhắm đến thiện ích chung”[18]. Tuy nhiên “khi chú ý quan sát xã hội hiện nay, chúng ta nhận ra vô vàn mâu thuẫn, nhiều đến nỗi chúng ta phải đặt ra câu hỏi liệu rằng phẩm giá bình đẳng của mọi người, vốn được long trọng công bố bảy mươi năm trước, có thực sự là được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đề cao trong mọi hoàn cảnh hay không. Trong thế giới ngày nay, còn tồn tại nhiều hình thức bất công, được dung dưỡng bởi quan điểm coi thường con người và mô hình kinh tế dựa trên lợi nhuận, sẵn sàng bóc lột, loại trừ và thậm chí tiêu diệt người khác. Trong lúc một phần nhân loại sống trong nhung lụa thì một phần khác thấy phẩm giá mình bị chối bỏ, bị khinh khi hoặc bị chà đạp và các quyền căn bản thì không được nhìn nhận hoặc bị vi phạm”[19]. Những chuyện này nói lên điều gì về quyền bình đẳng dựa trên chính phẩm giá của con người?

23. Cũng vậy, cơ cấu tổ chức xã hội trên toàn thế giới còn lâu mới phản ánh được việc phụ nữ hoàn toàn có phẩm giá và quyền lợi y như nam giới. Lời lẽ khẳng định là một chuyện, còn quyết định và thực tế lại là một chuyện khác. Thực vậy, “các phụ nữ trong hoàn cảnh bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực phải chịu nghèo khổ gấp đôi bởi vì họ thường là những người ít có khả năng nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của mình”.[20]

24. Chúng ta cũng thừa nhận rằng “mặc dù cộng đồng quốc tế đã đạt được nhiều thỏa thuận nhằm chấm dứt tình trạng nô lệ dưới mọi hình thức, và đang tiến hành nhiều kế hoạch chống lại hiện tượng này, nhưng ngày nay vẫn còn hàng triệu người, bao gồm trẻ em, nam giới và nữ giới thuộc mọi lứa tuổi, bị tước mất tự do và bị cưỡng bách sống trong những điều kiện không khác gì nô lệ. […] Thời nay cũng như thời xưa, gốc rễ của nô lệ chính là quan điểm cho phép đối xử với con người như đồ vật. […] Có thể là do bị ép buộc, bị lừa dối, hay bị cưỡng bức về thể lý hay tâm lý, con người, vốn được tạo dựng theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa, bị tước đoạt tự do, bị bán, bị biến thành vật sở hữu trong tay người khác. Khi đó họ bị đối xử như phương tiện chứ không như mục đích”. Các mạng lưới tội phạm “thường sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại để mồi chài các thanh niên thiếu nữ, những người còn rất trẻ, ở khắp nơi trên thế giới”[21]. Thật là đồi bại không còn gì để nói khi các phụ nữ bị hành hạ ngược đãi và rồi bị buộc phải phá thai. Thật là kinh khủng gớm ghê khi có người bị bắt cóc để bán nội tạng. Chính vì thế nạn buôn người và những hình thức nô lệ hiện đại trở thành vấn đề toàn cầu phải được toàn thể nhân loại nghiêm túc xem xét, vì “các tổ chức tội phạm sử dụng mạng lưới toàn cầu để đạt mục tiêu của họ, nên các dấn thân nhằm xóa bỏ hiện tượng này phải là một nỗ lực chung và cũng có tính toàn cầu với sự cộng tác của các thành phần khác nhau trong xã hội”[22].

Xung đột và sợ hãi

25. Chiến tranh, tấn công khủng bố, bách hại sắc tộc và tôn giáo cùng biết bao tổn hại khác cho phẩm giá con người được phán xét khác nhau, tùy theo mức độ chúng có phù hợp trong việc mang lại lợi ích nào đó, nhất là lợi ích kinh tế. Chúng được xem là đúng chừng nào còn hợp theo ý muốn nhà cầm quyền, và một khi không hợp ý nhà cầm quyền thì không còn đúng nữa. Thật đáng buồn khi phải nói rằng các tình trạng bạo lực này “đã trở nên phổ biến đến nỗi có thể gọi là “cuộc thế chiến thứ ba” phân mảnh”[23].

26. Không có gì phải ngạc nhiên về việc này nếu chúng ta nhận ra rằng những chân trời chung hợp nhất chúng ta không còn tồn tại nữa; thật vậy, trong mọi cuộc chiến, điều đầu tiên bị hủy hoại là “thiên hướng xây dựng tình huynh đệ vốn gắn liền với bản tính của gia đình nhân loại”. Hậu quả là, “mọi tình huống gây đe dọa đều làm nảy sinh mối hoài nghi và thúc đẩy con người rút lui vào vùng an toàn của mình”[24]. Và như vậy, thế giới chúng ta loay hoay trong một mâu thuẫn dị thường: chúng ta tin rằng chúng ta có thể giữ cho thế giới ổn định và hòa bình bằng một cảm thức an toàn giả tạo, chỉ dựa trên não trạng sợ hãi và ngờ vực”[25].

27. Thật là nghịch lý, có những nỗi sợ hãi từ bao đời truyền lại dẫu cho kỹ thuật có phát triển thế nào cũng không vượt thắng được; ngược lại, chúng có thể ẩn nấp và lan truyền đằng sau những kỹ thuật tân kỳ. Ngày nay cũng thế, bên ngoài các bức thành cổ xưa là vực thẳm, là lãnh địa xa lạ, là sa mạc hoang vu. Bất cứ điều gì phát xuất từ đó đều không thể tin cậy, vì đều xa lạ, không quen biết, không quen thuộc, không thuộc thành phần ngôi làng của chúng ta. Đó là vùng đất của “man dân”, là kẻ chúng ta phải lo phòng thủ đối địch bằng mọi giá. Do đó, các bức tường mới được dựng lên để tự vệ, để rồi thế giới bên ngoài không còn tồn tại mà chỉ còn thế giới “của tôi”, đến nỗi những người khác, không còn được xem là con người với phẩm giá không thể tước bỏ, nhưng chỉ là “bọn chúng” mà thôi. Chúng ta lần nữa lại đương đầu với “cơn cám dỗ tạo ra nền văn hóa xây tường, dựng lên những bức tường, những bức tường trong tim, những bức tường trên thực địa, để ngăn ngừa cho khỏi giáp mặt với các nền văn hóa khác, với các dân tộc khác. Và rốt cuộc những người xây tường sẽ thành nô lệ bên trong chính những bức tường họ đã dựng xây. Họ không có chân trời để hướng tới, bởi thiếu vắng sự đổi trao với các nền văn hóa khác, với những người khác”[26].

28. Nỗi cô đơn, sợ hãi và bất an của những người cảm thấy bị hệ thống này bỏ rơi tạo nên thửa đất màu mỡ cho vô số thế lực “mafia”. Thực vậy, những thế lực này nảy sinh bởi lẽ chúng tự cho mình là người bảo vệ những kẻ bị lãng quên, thông thường bằng cách trợ giúp họ ngay cả khi mục đích của chúng là nhắm đến những lợi ích bất chính. Cũng có một kiểu dẫn dắt mang đặc điểm mafia, bằng cách lôi kéo người ta vào một cộng đồng mang tính huyền bí giả tạo, với những ràng buộc phụ thuộc và gắn bó rất khó thoát khỏi.

TOÀN CẦU HÓA VÀ SỰ TIẾN BỘ KHÔNG CÓ LỘ TRÌNH CHUNG

29. Vị Đại giáo trưởng Ahmad Al-Tayyeb và tôi không phải là không biết đến những thành tựu đã đạt được, nhất là tại những nước đang phát triển, trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, y tế, công nghiệp và phúc lợi. Tuy nhiên, “chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, cùng với các tiến bộ lớn lao, có giá trị và mang tính lịch sử này, cũng đang diễn ra tình trạng suy thoái đạo đức, ảnh hưởng đến các hoạt động quốc tế và làm cho những giá trị tinh thần cùng ý thức trách nhiệm bị suy yếu đi. Tất cả những điều này góp phần lan rộng một cảm giác nói chung là chán nản, đơn độc và tuyệt vọng. […] Những điểm nóng đối kháng phát sinh, kho vũ khí và đạn dược được tăng cường, trong bối cảnh thế giới đầy tràn những bất ổn, thất vọng, lo sợ tương lai, hơn nữa còn bị lèo lái bởi những lợi ích kinh tế hạn hẹp”. Chúng tôi cũng chú ý đến “những cuộc khủng hoảng chính trị nổi bật, những bất công và tình trạng thiếu công bằng trong việc phân phối nguồn tài nguyên thiên nhiên. […] Đối diện với các cuộc khủng hoảng trên, khiến hàng triệu trẻ em gầy gò trơ xương chết vì nghèo đói, mà trên bình diện quốc tế chỉ thấy bao trùm một sự im lặng không thể chấp nhận”[27]. Trước bức tranh toàn cảnh này, dù với nhiều tiến bộ không thể phủ nhận, cũng không thấy có một lộ trình thực sự mang tình người.

30. Trong thế giới ngày nay, cảm thức thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất ngày càng phai nhạt, và giấc mơ cùng chung tay xây dựng công lý và hòa bình dường như là điều không tưởng, lỗi thời. Ngự trị thay vào đó là sự lãnh đạm tiện lợi, lạnh lùng và bao trùm, phát sinh từ mối thất vọng sâu xa, mối thất vọng được che giấu bởi sự xảo trá của ảo tưởng tin rằng chúng ta toàn năng, mà không nhận thấy tất cả chúng ta đều trên cùng một con thuyền. Ảo tưởng này chẳng quan tâm gì đến những giá trị cao cả của tình huynh đệ, dẫn chúng ta đến “một loại hoài nghi. Đó là cơn cám dỗ chúng ta phải đối diện nếu đi vào con đường chán nản hoặc thất vọng. […] Sự cô lập hoặc khép kín trong những mối bận tâm của chính mình không bao giờ là con đường mang lại hy vọng và dẫn đến đổi mới. Con đường này chỉ được hình thành bởi sự gần gũi, bởi nền văn hóa gặp gỡ. Hãy nói không với sự cô lập và nói có với sự gần gũi. Hãy nói không với văn hóa đối kháng và nói có với văn hóa gặp gỡ”[28].

31. Thế giới vẫn đang tiến bước mà không có lộ trình chung. Trong thế giới đó chúng ta ngày càng cảm thấy một bầu khí ở đó “khoảng cách giữa mối bận tâm về phúc lợi cá nhân và sự thịnh vượng của nhân loại dường như ngày càng dang rộng đến nỗi có sự phân cách hoàn toàn giữa cá nhân và cộng đồng nhân loại. […] Bởi lẽ cảm thấy phải sống chung với nhau là một chuyện, còn quý trọng sự phong phú và vẻ đẹp của những hạt mầm của cuộc sống chung phải được chung sức tìm kiếm và vun trồng lại là một chuyện khác”[29]. Kỹ thuật không ngừng phát triển, nhưng “sẽ tốt đẹp biết mấy nếu cùng với những tiến bộ sáng tạo của khoa học kỹ  thuật, xã hội ngày càng thêm bình đẳng và gắn kết với nhau. Và cũng tốt đẹp biết bao, nếu đang khi phát hiện ra những hành tinh xa lạ, chúng ta cũng lại phát hiện ra nhu cầu của các anh chị em sống chung quanh ta”[30].

CÁC ĐẠI DỊCH VÀ CÁC THẢM HỌA KHÁC TRONG LỊCH SỬ

32. Quả thực, thảm kịch toàn cầu như đại dịch Covid-19, có lúc đã khơi lại rõ ràng cái cảm thức chúng ta là một cộng đồng thế giới đang chèo chống trên cùng một con thuyền, ở đó điều gây tổn hại cho người này cũng gây tổn hại cho những người khác. Phải nhớ rằng nếu có được cứu, thì tất cả cùng được cứu, chứ chẳng có chuyện chỉ riêng ai đó được cứu. Đó là lý do trước đây tôi đã nói “cơn bão tỏ lộ cho thấy tính dễ bị tổn thương của chúng ta và cũng cho thấy những thứ an toàn giả tạo vô ích, mà chúng ta dựa vào để sắp đặt lịch trình hằng ngày, để xây dựng các dự án, thói quen và ưu tiên của chúng ta… Trong cơn giông bão này, những kiểu mẫu mặt nạ che giấu cái tôi của chúng ta, cái tôi luôn chăm chút dáng vẻ bên ngoài, đã bị rơi xuống, để rồi một lần nữa cho thấy cái cảm thức không thể chối bỏ và cũng thật tốt lành, đó là cảm thức chúng ta thuộc về nhau, là anh chị em với nhau”[31].

33. Nhờ tiến bộ công nghệ, thế giới không ngừng hướng tới một nền kinh tế với “những tổn hại cho con người và xã hội” ngày càng thấp. Có người thuyết phục chúng ta tin rằng cứ có thị trường tự do thì mọi thứ đều sẽ đâu vào đó. Tuy nhiên, với cú đánh sấm sét và bất ngờ của cơn đại dịch khó kiểm soát này, chúng ta buộc phải quan tâm đến con người, đến mọi người, thay vì chỉ nghĩ đến lợi ích của một số người. Ngày nay, chúng ta có thể nhận ra rằng “chúng ta đã ấp ủ những giấc mơ long lanh bay bổng, nhưng rốt cuộc lại thường rối trí, khép kín và cô độc. Chúng ta tích góp để có nhiều mối liên kết trên mạng nhưng lại đánh mất hương vị huynh đệ. Chúng ta mong tìm những kết quả nhanh chóng và chắc chắn nhưng lại bị áp lực vì thiếu kiên nhẫn và lo âu. Trở thành tù nhân cho thực tại ảo, chúng ta đã đánh mất hương vị của đời thực”[32]. Nỗi thống khổ, tình trạng bấp bênh, sự sợ hãi và việc nhận ra các giới hạn của bản thân, do cơn đại dịch gợi lên, càng khiến chúng ta phải cấp bách suy nghĩ lại về lối sống, các mối tương quan, cách tổ chức xã hội, và trên hết là ý nghĩa hiện hữu của chúng ta.[33]

34. Nếu mọi thứ đều có ảnh hưởng đến nhau, thật khó mà nghĩ rằng thảm họa mang tính toàn cầu này lại không liên quan gì đến cách chúng ta tiếp cận thực tại, khi cứ nhất định cho rằng chúng ta là chủ nhân tuyệt đối của chính cuộc đời mình và của tất cả những gì đang tồn tại. Tôi không muốn nói đây là do thần thánh trừng phạt. Cũng không cần phải khẳng định rằng những tổn hại mà chúng ta gây ra cho thiên nhiên chính là hình phạt cho các sai phạm của chúng ta. Chính những thực tại này đang rên xiết nổi loạn. Tôi chợt nhớ đến câu thơ nổi tiếng của thi sĩ Virgil vốn gợi lại “những giọt nước mắt của sự vật”, những bất hạnh của cuộc đời và lịch sử33.

35. Tuy nhiên, chúng ta mau chóng quên đi những bài học của lịch sử, vốn là “thầy dạy của cuộc sống”[34]. Khi cuộc khủng hoảng sức khỏe này qua đi, phản ứng tệ hại nhất của chúng ta là chìm ngập sâu hơn vào cơn sốt chủ nghĩa tiêu thụ và các hình thức mới của bản năng đấu tranh tự tồn ích kỷ. Nhờ trời, rốt cuộc, chúng ta không còn suy nghĩ kiểu “bọn chúng”, “bọn nó”, mà chỉ còn là “chúng ta”. Ước gì đây không là một bi kịch khác của lịch sử mà lại một lần nữa chúng ta chẳng học được gì. Ước gì chúng ta luôn nhớ đến những người già đã chết vì thiếu máy trợ thở, phần nào đó là do hậu quả tích tụ dần, hết năm này đến năm khác, trong việc dỡ bỏ các trang thiết bị của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Ước gì nỗi đớn đau dằn vặt lớn lao đó không trở nên vô ích, nhưng là bước tiến giúp chúng ta biết đổi mới cách sống. Ước gì chúng ta tái khám phá và vĩnh viễn nhận biết rằng chúng ta cần đến nhau, chúng ta mắc nợ lẫn nhau để nhờ đó, gia đình nhân loại được tái sinh, với mọi khuôn mặt, mọi bàn tay và mọi tiếng nói, vượt khỏi các bức tường biên giới mà chúng ta đã dựng nên.

Bài này đã được xem 990 lần!

Pages ( 2 of 18 ): <1 2 34 ... 18>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]