74. Trong những người quay mặt bỏ đi, có một chi tiết đáng chú ý: họ là những tín đồ tôn giáo, và hơn thế, là những chức sắc tôn giáo, chuyên lo việc tế tự thờ phượng Thiên Chúa: một thầy tư tế, một thầy Lêvi. Đây là lời cảnh báo mạnh mẽ: việc tin vào Thiên Chúa và tôn thờ Ngài không bảo đảm cho việc sống theo ý muốn của Ngài. Một người có niềm tin có thể không trung thành với tất cả những gì niềm tin này đòi hỏi, thế nhưng, lại có thể cảm thấy gần gũi Thiên Chúa và nghĩ rằng mình xứng đáng hơn những người khác. Nhưng vẫn có những cách sống niềm tin tạo thuận lợi cho việc mở lòng ra với anh em; và sống như thế mới bảo đảm cho việc thực sự mở lòng ra với Thiên Chúa. Thánh Gioan Kim khẩu còn đi đến chỗ diễn tả hết sức sáng sủa thách đố này của các Kitô hữu: “Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng tôn kính thân thể Người, theo kiểu: trong nhà thờ thì cho Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải lạnh giá và trần trụi”[58]. Điều ngược đời là đôi khi những người quả quyết mình không tin lại có thể chu toàn ý muốn của Thiên Chúa hơn những người tin.
75. Đồng minh bí mật của “bọn cướp đường” thường là những kẻ “quay mặt bỏ đi”. Vòng tròn đồng minh đó được khép kín giữa những kẻ khuynh đảo lừa dối xã hội để trục lợi với những người tin rằng mình vẫn trong sạch khi thi hành trọng trách của mình, nhưng đồng thời lại sống nhờ vào hệ thống này và hưởng những bổng lộc của nó. Có một kiểu đạo đức giả đáng buồn trong việc dung túng cho tội ác, dung túng cho các cá nhân hoặc tập đoàn sử dụng các định chế để trục lợi và những tệ nạn khác không thể diệt trừ, đi đôi với việc làm tha hóa tất cả, với việc không ngừng gieo rắc nghi ngờ khiến người ta bối rối hoang mang và không còn tin nhau nữa. Đáp lại lời phàn nàn “mọi thứ đều tồi tệ”, người ta bảo: “chẳng ai có thể sửa chữa được” hoặc “tôi thì có thể làm gì được?”. Và như thế người ta ngày càng vỡ mộng và tuyệt vọng, tình trạng này không khích lệ tinh thần liên đới và quảng đại. Nhận chìm một dân tộc trong chán nản là khép kín một vòng tròn tai quái hoàn hảo: đó chính là cách các nền chuyên chính độc tài vô hình của những quyền lợi giấu mặt và có thực đang vận hành nhằm chiếm hữu các nguồn tài nguyên cũng như khả năng phán đoán và suy tư của con người.
76. Cuối cùng chúng ta hãy nhìn đến người bị thương tích. Đôi khi chúng ta cảm thấy mình cũng như người ấy, mang thương tích trầm trọng, đang rên rỉ nằm bên đường. Chúng ta cũng cảm thấy bị bỏ rơi do các định chế của chúng ta thì thiếu sót và vô hiệu, hoặc chỉ phục vụ lợi ích của một thiểu số, bên trong và bên ngoài. Thật vậy, “trong xã hội toàn cầu hóa, người ta thường lịch sự quay nhìn về phía khác: dưới lớp vỏ bọc chính trị đúng đắn hoặc các ý thức hệ, họ nhìn người đau khổ mà không chạm tới, chỉ thấy người đau khổ trên truyền hình trực tiếp, và thậm chí còn dùng kiểu nói với nhiều uyển ngữ và đầy vẻ khoan dung[59].
Bắt đầu lại
77. Mỗi ngày chúng ta có được một thời cơ mới, bắt đầu một chặng đường mới. Đừng chờ đợi mọi thứ từ nhà cầm quyền, vì như thế là ấu trĩ. Chúng ta có một không gian đồng trách nhiệm để có thể bắt đầu và tạo ra các tiến trình và những thay đổi. Chúng ta hãy là những người chủ động trong việc phục hồi và hỗ trợ những tầng lớp xã hội bị tổn thương. Ngày nay, chúng ta có thời cơ thuận tiện để chứng tỏ rằng tự bản chất chúng ta là anh chị em với nhau, để trở thành những người Samari tốt lành nhận về mình nỗi đau của người khác, thay vì kích động hận thù và oán giận. Tựa như người bộ hành trong dụ ngôn tình cờ đi qua, chúng ta chỉ cần để mình được thúc đẩy bởi ước muốn tự nhiên, trong sáng và đơn giản, là làm nên một dân tộc, là miệt mài dấn thân giúp cho người quỵ ngã bên đường được đón nhận, được hội nhập và được nâng dậy; mặc dù nhiều lần chúng ta cảm thấy hết chịu nổi, muốn dùng đến lý lẽ của những kẻ ưa bạo lực, nuôi tham vọng mù quáng, chuyên gieo rắc ngờ vực và dối trá. Mặc cho bao người khác vẫn tiếp tục xem chính trị hoặc kinh tế như vũ đài để tranh giành quyền lực. Còn chúng ta, hãy cổ võ thiện ích và hãy phục vụ thiện ích!
78. Chúng ta có thể bắt đầu từ dưới lên với từng trường hợp thật cụ thể, trước hết ở quy mô địa phương, rồi dần dần lan rộng khắp nước, cho đến tận cùng thế giới, và như người bộ hành Samari hãy quan tâm chăm sóc từng vết thương của người bị nạn. Hãy tìm kiếm những người bị nạn khác và đón nhận những thực tại đó, đừng sợ đau khổ cũng đừng sợ sẽ không kham nổi, vì chính lúc đó chúng ta sẽ nhận ra tất cả những gì tốt lành Thiên Chúa đã gieo trồng nơi tâm hồn con người. Những khó khăn tưởng chừng quá sức sẽ là cơ hội phát triển chứ không là duyên cớ cho tình trạng trì trệ đáng buồn, dễ đưa đến thái độ buông xuôi phục tùng. Tuy nhiên, đừng làm một mình, kiểu cá nhân đơn độc. Người Samari đã tìm được một chủ nhà trọ có thể chăm sóc cho nạn nhân. Chúng ta cũng thế, chúng ta được mời gọi huy động nhau để kết liên thành một cái “chúng ta”, chắc hẳn sẽ hùng mạnh hơn tổng số những cá nhân lẻ loi nhỏ bé. Hãy nhớ rằng “toàn thể lớn hơn thành phần và cũng lớn hơn tổng số các thành phần”[60]. Hãy từ bỏ thói nhỏ nhen và nỗi oán hận mang tính cục bộ vô bổ, không ngừng đối kháng. Hãy thôi che đậy nỗi thống khổ do những sai lầm mình gây ra đồng thời thừa nhận các tội ác, sự lãnh đạm và dối trá của chính mình! Việc hòa giải và chữa lành sẽ mang lại cho chúng ta cũng như những người khác một cuộc sống mới, không còn sợ hãi nữa.
79. Người Samari rời quán trọ không mong có ai biết tới cũng không chờ một lời tri ân nào. Trước mặt Thiên Chúa và lương tâm của mình, ông cảm thấy vô cùng mãn nguyện vì đã tận tâm phục vụ, đây là bổn phận. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với người bị thương, là chính dân tộc mình và mọi dân tộc trên trái đất này. Cũng với thái độ liên đới, quan tâm và gần gũi của người Samari tốt lành, chúng ta hãy chăm sóc những thương tích yếu đau của mọi người, người lớn, trẻ em và người cao tuổi.
Người thân cận không kể biên giới
80. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn này để trả lời cho một câu hỏi: ai là người thân cận của tôi? Trong xã hội thời Chúa Giêsu cụm từ “người thân cận” thường dùng để chỉ người gần nhất, người láng giềng. Người ta dành sự giúp đỡ trước hết là cho những người cùng nhóm, cùng chủng tộc với mình. Với cái nhìn của một số người Do Thái thời đó, những người Samari thì đáng khinh và ô uế, không được kể vào số những người thân cận phải trợ giúp. Là người Do Thái, Đức Giêsu đảo ngược hoàn toàn cách tiếp cận này: Ngài không mời gọi chúng ta đặt câu hỏi ai là người thân cận của chúng ta, nhưng mời gọi chúng ta trở thành người gần gũi, người thân cận của mọi người.
81. Điều Ngài đề nghị đó là hãy hiện diện bên cạnh người đang cần trợ giúp, không bận tâm thắc mắc người ấy có cùng nhóm với ta hay không. Trong trường hợp này, chính người Samari đã làm cho mình trở thành người thân cận của người Do Thái bị thương. Để đến bên người bị nạn, ông đã vượt qua mọi rào cản văn hóa và lịch sử. Chúa Giêsu kết luận dụ ngôn bằng một yêu cầu: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,37). Nói cách khác, Ngài đòi buộc chúng ta hãy bỏ qua mọi khác biệt và đứng trước nỗi đau hãy trở nên thân cận với mọi người. Do đó, tôi không còn nói rằng tôi có những “người thân cận” phải giúp đỡ, nhưng đúng hơn phải nói rằng tôi cảm thấy được kêu gọi trở nên người thân cận với những người khác.
82. Vấn đề Đức Giêsu cố ý nhấn mạnh đó là người bị thương là người Do Thái – dân cư xứ Giu-đê – trong khi người dừng lại để trợ giúp là người Samari – dân cư xứ Samari. Chi tiết này đặc biệt quan trọng giúp suy tư về một tình yêu mở rộng đến mọi người. Những người Samari sống trong vùng có sự thâm nhập của các nghi lễ ngoại giáo, và dưới mắt người Do Thái, điều đó khiến họ trở thành ô uế, đáng ghê tởm, nguy hiểm. Thực vậy, một bản văn cổ Do Thái đề cập đến các dân bị ghét bỏ, có nói về Samari, thậm chí còn khẳng định đó không phải là một dân (x. Hc 50,25); và sau đó còn thêm “đám dân ngu xuẩn ở vùng Si-khem” (c. 26).
83. Điều này giải thích tại sao khi Chúa Giêsu xin một phụ nữ Samari nước uống, chị đã cắc cớ hỏi lại: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Lời cáo buộc xúc phạm nhất mà những người tìm cách bôi nhọ Đức Giêsu đã có thể rêu rao là bảo Ngài ”bị quỷ ám” và là “người Samari” (Ga 8,48). Do đó, cuộc gặp gỡ đầy lòng thương xót giữa một người Samari và một người Do Thái là lời chất vấn mạnh mẽ chống lại mọi thao túng ý thức hệ, thúc đẩy chúng ta mở rộng thế giới của mình, nhờ đó khả năng yêu thương của chúng ta có được chiều kích phổ quát vượt thắng mọi thành kiến, mọi rào cản lịch sử hoặc văn hóa, mọi lợi ích nhỏ nhen.
Lời kêu van của người khách lạ
84. Sau cùng, tôi lưu ý đến một đoạn Tin Mừng, trong đó Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là khách lạ các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25,35). Chúa Giêsu đã có thể công bố những lời này bởi vì Ngài có một trái tim rộng mở, nhạy cảm với những nỗi khốn quẫn của người khác. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ: “Anh em hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Một khi trái tim chúng ta mang lấy thái độ này thì chúng ta có khả năng đồng hóa mình với người khác, chẳng kể người đó sinh ở đâu hoặc đến từ nơi nào. Khi đi vào tiến trình này, cuối cùng chúng ta sẽ cảm nghiệm được người khác là “anh em cốt nhục” của mình (Is 58,7).
85. Đối với các Kitô hữu, những lời của Đức Giêsu còn có một chiều kích siêu việt khác, khiến họ nhận ra chính Đức Kitô trong mỗi người anh em bị bỏ rơi hoặc bị loại trừ (x. Mt 25,40.45). Trong thực tế, đức tin tạo lập lòng tôn trọng người khác dựa trên những thúc đẩy lạ thường, bởi lẽ các tín hữu nhận biết rằng Thiên Chúa yêu thương từng người bằng một tình yêu vô biên và “Ngài cũng ban cho mỗi người một phẩm giá vô biên”[61]. Hơn nữa chúng ta tin rằng Chúa Kitô đã đổ máu mình ra cho mọi người và cho từng người, vì thế, không ai ở ngoài tình yêu phổ quát của Ngài. Và nếu chúng ta đi đến tận nguồn tình yêu đó, nghĩa là đi vào đời sống thâm sâu thân mật của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy một cộng đồng Ba Ngôi, là nguồn gốc và mẫu mực hoàn hảo của mọi đời sống cộng đồng. Đã có những triển khai thần học sâu rộng về điểm này. Thần học ngày càng phong phú nhờ suy tư về chân lý lớn lao đó.
86. Đôi khi tôi lấy làm tiếc vì mặc dù đã có được những thúc đẩy như thế, Giáo hội đã phải mất một thời gian rất dài mới mạnh mẽ lên án nạn nô lệ và những hình thức bạo lực. Ngày nay, với sự tiến triển của linh đạo và thần học, chúng ta không còn lý do để biện minh nữa. Tuy nhiên, vẫn còn có những người dường như cảm thấy niềm tin của mình cổ võ hoặc ít ra chấp nhận các hình thức chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và bạo lực, thái độ bài ngoại, miệt thị, thậm chí ngược đãi những ai khác mình. Đức tin, bao hàm cả chủ nghĩa nhân bản, phải giữ được cảm thức phê phán trước các khuynh hướng này và tức thời phản ứng khi chúng xuất đầu lộ diện. Chính vì thế, điều quan trọng là trong huấn giáo và giảng dạy cần đề cập cách trực tiếp và rõ ràng hơn những nội dung liên quan đến ý nghĩa xã hội của hiện sinh, chiều kích huynh đệ của linh đạo, niềm xác tín về phẩm giá không thể tước bỏ của mỗi người và những lý do để yêu thương và đón nhận mọi người.
CHƯƠNG BA:
DỰ PHÓNG VÀ KIẾN TẠO MỘT THẾ GIỚI MỞ
87. Con người được tạo dựng cách nào đó, sao cho họ không thể sống, phát triển và đạt đến mức thành toàn nếu không “chân thành trao ban chính mình”[62]. Con người cũng không thể hiểu biết tường tận sự thật về chính mình, nếu không gặp gỡ người khác: “Tôi chỉ thực sự thông hiệp với chính mình trong mức độ tôi thông hiệp với người khác”[63]. Điều đó giải thích tại sao không ai có thể cảm nghiệm được giá trị của cuộc sống nếu không có những khuôn mặt cụ thể để yêu thương. Điều này tỏ lộ bí ẩn của kiếp nhân sinh đích thực, vì “sự sống tồn tại nơi nào có mối liên kết, có sự hiệp thông, có tình huynh đệ; và sự sống mạnh hơn cái chết khi nó được xây dựng trên những mối quan hệ chân thực và sự gắn bó thủy chung. Ngược lại, sự sống không tồn tại nơi nào người ta cho rằng mình chỉ thuộc về mình và sống như những ốc đảo: cái chết đã thắng thế nơi những thái độ này“[64].
VƯỢT KHỎI CHÍNH MÌNH
88. Từ đáy sâu tâm hồn, tình yêu tác tạo những mối dây liên kết và mở rộng cuộc hiện sinh khi kéo con người ra khỏi chính mình để đến với người khác[65]. Được tạo dựng cho tình yêu, mỗi người chúng ta đều mang trong mình “một phép ‘xuất thần’: ra khỏi chính mình để tìm gặp nơi người khác chính bản thân mình cách tròn đầy hơn”[66]. Đó là lý do tại sao “con người bằng mọi cách, phải thực hiện cho được việc ra khỏi chính mình”[67].
89. Nhưng trong cuộc sống tôi không thể thu hẹp các mối tương quan để chỉ còn liên hệ với một nhóm nhỏ, ngay cả với riêng gia đình tôi, bởi lẽ tôi không thể hiểu được mình nếu không có một mạng lưới liên hệ rộng rãi hơn: không chỉ là những liên hệ hiện tại của tôi mà cả những liên hệ đã có trước đây và đào luyện tôi suốt cả cuộc đời. Dẫu tôi có được mối tương quan rất thắm thiết với người mà tôi yêu quý, thì tôi cũng không được quên rằng người này không chỉ sống vì tôi cũng như tôi không chỉ sống vì người ấy. Mối liên hệ của chúng ta, nếu lành mạnh và chân thật, sẽ rộng mở đến những người khác, nhờ đó chúng ta sẽ được triển nở và phong phú hơn. Hiện nay, cảm thức xã hội, với ý nghĩa cao quý nhất của sự hợp quần, ngày càng bị thu hẹp, nhường chỗ cho những mối liên kết ích kỷ mang dáng vẻ thắm thiết. Thế mà tình yêu chân chính vốn làm cho con người được triển nở cùng với tình bằng hữu đích thực chỉ ngự trị nơi những tâm hồn biết mở ra để được lấp đầy. Muốn kết đôi hay trở nên bạn hữu, chúng ta phải mở rộng con tim để đến với những nhóm người khác, nhờ đó chúng ta có khả năng ra khỏi chính mình, ngõ hầu đón nhận tất cả mọi người. Những nhóm khép kín và những đôi bạn chỉ biết đến mình tạo thành một cái “chúng tôi” đối nghịch với mọi người, thường là biểu hiện rõ ràng của thói ích kỷ chỉ lo phòng giữ cho riêng mình.
90. Điều đáng nói là nhiều ngôi làng nhỏ trong những vùng hẻo lánh đã có thể quảng đại tiếp đón các khách hành hương và xem đó như bổn phận thiêng thánh của lòng hiếu khách. Những cộng đoàn tu sĩ thời trung cổ cũng đã chứng tỏ điều đó, như Luật Thánh Biển Đức minh chứng. Mặc dù việc đón tiếp này có thể gây xáo trộn cho nề nếp trật tự và bầu khí thinh lặng của các Đan viện, Thánh Biển Đức yêu cầu “phải hết sức ân cần chăm sóc những người nghèo và các khách hành hương”[68]. Việc gặp gỡ những người ngoài cộng đoàn vừa là một thách thức vừa là một món quà mà lòng hiếu khách là cách thức biểu lộ cụ thể của việc sẵn sàng đón nhận. Các đan sĩ hiểu rằng, mọi điều giá trị mà họ thủ đắc nhờ tu luyện đều cần phải đi kèm với khả năng vượt khỏi chính mình để mở ra với người khác.
Giá trị vô song của tình yêu
91. Người ta có thể củng cố một số thái độ mang dáng vẻ giá trị luân lý: dũng cảm, tiết độ, chuyên chăm và những đức tính khác. Nhưng để các hành vi được tương hợp với các nhân đức luân lý, cần phải xét xem những hành vi ấy có mang lại sức năng động có khả năng mở ra và liên kết với người khác hay không, nếu có thì đến mức độ nào. Sức năng động này chính là đức ái được Thiên Chúa phú ban, nếu như không có, chúng ta chỉ có thể vun trồng vẻ ngoài của nhân đức, vốn không có khả năng xây dựng đời sống chung. Chính vì thế thánh Tôma Aquinô, khi trích dẫn Augustinô, đã khẳng định rằng: sự tiết độ của người hà tiện không phải là nhân đức[69]. Về phần mình, thánh Bônaventura giảng giải rằng: nếu không có đức ái, các nhân đức khác không thể giúp ta thực sự chu toàn các giới răn “như cách Thiên Chúa muốn”[70].
Bài này đã được xem 998 lần!