92. Tầm vóc thiêng liêng của đời người mang nét đặc trưng của tình yêu. Tình yêu, suy cho cùng, là “tiêu chuẩn xác định cuộc đời của một người có giá trị hay không”[71]. Tuy nhiên, có những tín hữu nghĩ rằng uy thế của họ là ở chỗ áp đặt ý thức hệ lên người khác hoặc ở chỗ dùng bạo lực để bảo vệ sự thật hoặc bằng cách rầm rộ biểu dương lực lượng. Là các tín hữu, tất cả chúng ta đều phải nhận biết điều này: tình yêu là điều tối thượng, đừng bao giờ để tình yêu lâm vào vòng nguy hiểm và nguy hiểm trầm trọng nhất chính là việc không yêu thương (x. 1 Cr 13,1-13).
93. Để xác định rõ đặc điểm của tình yêu được chúng ta cảm nghiệm nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Thánh Tôma Aquinô đã định nghĩa tình yêu như một chuyển động khiến ta tập chú đến người khác “bằng cách xem người ấy như là một với chính mình”[72]. Tình cảm dành cho người khác dẫn đến việc mưu cầu thiện ích cho người ấy cách vô vị lợi. Điều này khởi đi từ cảm thức quý mến, trân trọng phẩm giá của người khác, tóm lại được diễn tả bằng từ ngữ “bác ái”: người được yêu là người rất “quý báu” đối với tôi, “người ấy được đánh giá cao”[73]. Và “tình yêu khiến ai đó đẹp lòng (grata) tôi chính là lý do khiến tôi trao ban cho họ cách vô vị lợi (gratis)”[74].
94. Do đó tình yêu bao trùm hơn, chứ không chỉ là hàng loạt nghĩa cử. Đó là những hành động phát xuất từ sự liên kết với người khác ngày càng bền chặt hơn, nhìn nhận phẩm giá của người ấy, thấy họ đáng được tôn trọng, dễ mến và tốt đẹp, bất kể dáng vẻ bên ngoài hoặc tình trạng đạo đức của họ. Yêu người khác vì bản thân người ấy, vì những gì họ là, sẽ thúc đẩy chúng ta mưu cầu điều tốt đẹp nhất cho họ. Chỉ khi vun trồng loại tương quan này chúng ta mới có thể tạo được tình bằng hữu xã hội không loại trừ và tình huynh đệ mở ra cho hết mọi người.
TÌNH YÊU MỞ RỘNG
95. Sau hết, tình yêu thúc đẩy chúng ta hiệp thông với hết mọi người. Không ai có thể trưởng thành và đạt tới mức thành toàn khi sống tách biệt người khác. Bởi tính năng động của nó, tình yêu đòi ngày một mở rộng, ngày càng có khả năng đón nhận người khác, bằng cách thực hiện một cuộc phiêu lưu không ngừng nghỉ làm cho tất cả các vùng ngoại vi cùng hướng đến cảm thức thật sự thuộc về nhau. Như Đức Giêsu đã nói với chúng ta: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau”(Mt 23,8).
96. Các vùng miền và các quốc gia cũng cần vượt ra khỏi ranh giới của chính mình. Thật vậy, “việc ngày càng gia tăng số lượng các kết nối và thông tin liên lạc trong thế giới ngày nay khiến chúng ta ý thức rõ ràng về tính thống nhất và định mệnh chung giữa các quốc gia. Chúng ta nhận ra trong những biến chuyển của lịch sử cũng như trong tính đa dạng của các sắc dân, các xã hội và các nền văn hóa, các mầm mống của thiên hướng tạo lập một cộng đồng những anh chị em biết đón nhận và chăm sóc cho nhau”[75].
Xã hội mở có khả năng dung nạp mọi người
97. Có một số vùng ngoại vi ở ngay bên chúng ta, giữa thành phố hoặc trong chính gia đình chúng ta. Cũng có một hình thức tình yêu phổ quát mở ra, không mở ra về địa lý nhưng mở ra trong cuộc sống. Đó là khả năng mỗi ngày mở rộng vòng tròn thân thiện của tôi, tìm đến với những người không hẳn nhiên được tôi quan tâm, dù họ ở gần bên tôi. Hơn nữa, mỗi anh chị em đau khổ, bị xã hội bỏ rơi hoặc không ngó ngàng tới, đều là ngoại kiều ngay trong đất nước họ sinh ra, một thứ ngoại kiều của thực tế cuộc sống. Họ có thể là một công dân với đầy đủ giấy tờ, nhưng bị đối xử như người ngoài ngay trên đất nước mình. Nạn kỳ thị chủng tộc là một thứ virus dễ dàng đột biến và thay vì biệt tăm thì lại ẩn núp rình chờ.
98. Tôi muốn nhắc đến những “người lưu vong ẩn mặt” bị đối xử như bộ phận ngoại lai trong xã hội[76]. Nhiều người khuyết tật “cảm thấy họ sống mà chẳng thuộc về ai và cũng chẳng được tham dự vào việc gì”. Còn nhiều người khác bị “ngăn cản không được có đầy đủ tư cách công dân”. Mối quan tâm của chúng ta không chỉ là chăm sóc họ mà còn bảo đảm cho họ được “tham gia tích cực vào cộng đồng dân sự và Giáo hội. Đó là hành trình vừa đòi hỏi lại vừa khó khăn, sẽ ngày càng góp phần vào việc đào tạo lương tâm biết nhìn nhận mỗi cá nhân là một con người duy nhất và không thể thay thế”. Tôi cũng nghĩ đến “những người cao tuổi, nhất là vì yếu đuối khuyết tật, đôi khi bị coi là gánh nặng”. Tuy nhiên, mỗi người trong số những người này đều có thể mang lại “phần đóng góp riêng vào thiện ích chung, qua đời sống độc đáo họ đã trải qua”. Cho phép tôi nhấn mạnh rằng phải có “can đảm mang lại tiếng nói cho những người, vì có khiếm khuyết mà bị phân biệt đối xử. Bởi vì, thật đáng buồn, kể cả ngày nay tại một số nước, người ta khó lòng nhìn nhận phẩm giá bình đẳng của những con người này”[77].
Những cách hiểu không đúng về tình yêu phổ quát
99. Tình yêu vượt khỏi các ranh giới được đặt nền tảng trên điều được gọi là “tình bằng hữu xã hội” trong mỗi thành phố hoặc mỗi quốc gia. Khi một cộng đồng có được tình bằng hữu xã hội chân chính, thì đây chính là điều kiện để cộng đồng đó thực sự mở ra đón nhận mọi người. Lý tưởng này không phải là chủ thuyết phổ quát giả hiệu của người luôn có nhu cầu phải đi đây đi đó, họ đi vì không chịu đựng được cũng không yêu mến người dân nước mình. Kẻ xem thường chính người dân nước mình thường thiết lập thứ bậc trong xã hội: người hạng nhất hoặc hạng hai, người có phẩm giá cao hay phẩm giá kém, người có nhiều quyền hoặc ít quyền. Bằng cách này, họ phủ nhận việc có chỗ cho tất cả mọi người.
100. Chắc chắn tôi không đề xuất một chủ thuyết phổ quát độc đoán và trừu tượng, được nghĩ ra hoặc lên kế hoạch bởi một số người và được giới thiệu như một lý tưởng với tham vọng đồng nhất, thống trị và cướp bóc. Có thứ mô hình toàn cầu hóa “nhất quyết đạt đến sự đồng nhất một chiều và mưu toan loại trừ mọi khác biệt và mọi truyền thống chỉ nhằm tìm kiếm sự thống nhất hời hợt bề ngoài. […]. Nếu có mô hình toàn cầu hóa nào đó có ý định san bằng tất cả […], như thể san bằng một khối cầu, thì loại toàn cầu hóa này phá hủy tính phong phú cũng như tính đặc thù của từng con người và của từng dân tộc”[78]. Chủ thuyết phổ quát sai lầm này cuối cùng sẽ tước mất nét đa dạng muôn màu và nét đẹp của thế giới và rốt cuộc cả nhân tính của nó nữa. Thật vậy, “tương lai không chỉ đơn điệu một màu, nhưng […] có thể muôn màu muôn sắc, nếu chúng ta can đảm nhìn ngắm nó trong nét đa dạng và khác biệt mà mỗi cá nhân có thể cống hiến. Ôi, gia đình nhân loại chúng ta cần học hỏi biết mấy cách sống chung hòa thuận êm ấm mà không cần mọi người phải giống y như nhau!”[79].
VƯỢT KHỎI THẾ GIỚI CỦA CÁC ĐỐI TÁC
101. Giờ đây chúng ta hãy quay lại với dụ ngôn người Samari nhân hậu vì dụ ngôn này vẫn còn nhiều điều để dạy chúng ta. Khi ấy có một người bị thương nằm bên đường. Những người đi ngang qua nạn nhân đã không chú tâm lắng nghe tiếng thúc giục trong lòng mình để trở nên những người thân cận; họ đang bận tâm đến bổn phận, đến địa vị xã hội, đến uy thế nghề nghiệp trong xã hội của họ. Họ cảm thấy mình rất quan trọng đối với xã hội thời ấy và lo lắng hoàn thành vai trò đó sao cho tốt. Người bị thương bị bỏ rơi bên đường quả là điều phiền toái làm gián đoạn mọi chương trình này, hơn nữa người này chẳng có chức vị gì. Anh ta chẳng là ai cả, không thuộc một nhóm được nể trọng nào, chẳng có vai trò gì làm nên lịch sử cả. Trong khi ấy, có một người Samari nhân hậu đã vượt qua cám dỗ xếp hạng hẹp hòi này, chính ông cũng không thuộc bất kỳ nhóm nào trong số này, đơn thuần ông chỉ là một người khách lạ không có địa vị đặc biệt nào trong xã hội. Vì không bị ràng buộc bởi chức danh và địa vị, ông có thể tạm dừng cuộc hành trình, thay đổi chương trình của mình, và sẵn sàng mở lòng đón nhận mọi sự ngoài dự tính để giúp đỡ người bị thương đang cần đến ông.
102. Câu chuyện này có thể gợi lên những phản ứng nào trong thế giới hôm nay, vẫn hằng xuất hiện ngày càng nhiều nhóm xã hội bám vào một danh tính tách biệt họ với những người khác? Làm sao câu chuyện ấy có thể đánh động tâm hồn những con người có xu hướng tự sắp xếp để ngăn ngừa sự hiện diện của mọi người xa lạ, có thể làm xáo trộn bản sắc cũng như cơ cấu phòng thủ và đóng kín của họ? Ở đây, họ không thể là người thân cận, họ chỉ có thể thân cận với những ai làm lợi cho họ. Như thế, từ ngữ ‘người thân cận’ mất hết ý nghĩa, và chỉ còn ‘bạn đối tác’ là có ý nghĩa, đối tác vì cùng hoạt động cho những lợi ích nhất định[80].
Tự do, bình đẳng và huynh đệ
103. Tình huynh đệ không đơn thuần được phát sinh bởi tôn trọng tự do cá nhân hoặc tuân thủ sự bình đẳng. Mặc dù đây là những điều kiện tiên quyết nhưng không đủ để tình huynh đệ tất yếu nảy sinh. Tình huynh đệ còn mang lại điều gì đó tích cực hơn cho tự do và bình đẳng. Điều gì sẽ xảy ra nếu tình huynh đệ không được vun xới cách ý thức, nếu không có một ý chí chính trị cổ võ tình huynh đệ, qua việc giáo dục tình huynh đệ, đối thoại và khám phá các giá trị của nhau để làm phong phú cho nhau? Điều này khiến tự do bị thu hẹp, chỉ còn là tình trạng cô lập, tự ý muốn thuộc về ai hoặc về cái gì cũng được, hoặc chỉ muốn chiếm hữu và hưởng thụ mà thôi. Điều này hoàn toàn không diễn tả hết được sự phong phú của tự do vốn luôn hướng đến tình yêu
104. Sự bình đẳng cũng không đạt được bằng một định nghĩa trừu tượng cho rằng “tất cả mọi người đều bình đẳng”. Đúng hơn, nó có được khi chúng ta vun trồng ý thức và giáo dục về tình huynh đệ. Những người là đối tác của nhau chỉ tạo ra những xã hội khép kín. Trong xã hội đó, đâu là chỗ cho người không thuộc các nhóm đối tác, nhưng ước mơ một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình mình?
105. Chủ nghĩa cá nhân không làm cho chúng ta tự do hơn, bình đẳng hơn, huynh đệ hơn. Đơn thuần gộp tổng số lợi ích cá nhân không thể tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho cả nhân loại. Nó cũng không thể cứu chúng ta khỏi rất nhiều điều tệ hại đang ngày càng mang tầm mức toàn cầu. Nhưng chủ nghĩa cá nhân cực đoan là thứ virus khó loại trừ nhất. Nó lừa dối chúng ta. Nó khiến chúng ta tưởng rằng tất cả hệ tại ở việc để cho tham vọng cá nhân được tự do vận hành, như thể hễ cứ theo đuổi những tham vọng và an toàn cá nhân là chúng ta có thể xây dựng được lợi ích chung.
TÌNH YÊU PHỔ QUÁT THĂNG TIẾN CON NGƯỜI
106. Để thăng tiến trên con đường xây dựng tình bằng hữu xã hội và tình huynh đệ phổ quát, có một điều cơ bản và thiết yếu cần phải nhìn nhận là: ý thức giá trị lớn lao của mỗi người, mỗi nhân vị, ở mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Nếu mỗi người có giá trị lớn lao như thế, thì cần phải quả quyết rõ ràng rằng “riêng việc một số người sinh ra ở nơi ít tài nguyên hoặc kém phát triển thì không thể là lý do để biện minh cho việc họ phải sống kém phẩm giá”[81]. Nguyên tắc cơ bản này của đời sống xã hội thường bị bỏ qua theo nhiều cách bởi những người thấy rằng nó không phù hợp với thế giới quan của họ hoặc không phục vụ cho các mục tiêu của họ.
107. Mọi người đều có quyền sống đúng nhân phẩm và được phát triển đầy đủ. Không quốc gia nào được từ chối quyền cơ bản này. Mọi người đều có quyền này ngay cả đối với người không có khả năng làm việc hoặc được sinh ra và lớn lên với những hạn chế. Thật vậy, điều này không làm giảm phẩm giá cao cả của người ấy xét như một nhân vị, phẩm giá này không dựa trên hoàn cảnh cuộc sống mà dựa trên giá trị nội tại của chính con người ấy. Khi nguyên tắc cơ bản này không được tôn trọng, thì tình huynh đệ cũng như sự sống còn của nhân loại sẽ không có tương lai.
108. Một số xã hội chỉ chấp nhận một phần nguyên tắc này. Họ đồng ý rằng mọi người đều phải có cơ hội, nhưng lại cho rằng mọi sự tùy thuộc vào cá nhân mỗi người. Từ quan điểm phiến diện này, sẽ là vô nghĩa khi “đầu tư để những người chậm chạp, những người yếu kém hoặc thiểu năng có thể làm được điều gì đó trong cuộc đời”[82]. Đầu tư cho những người yếu kém có thể là điều không mang lại lợi nhuận, cũng như kém hiệu quả. Việc này đòi hỏi một nhà nước luôn có mặt và tích cực hoạt động, cũng như các tổ chức xã hội dân sự vốn thực sự hướng tới con người và công ích, phải vượt lên trên hoạt động tự do của cơ chế duy hiệu năng trong một số hệ thống kinh tế, chính trị hoặc ý thức hệ.
109. Đối với những người sinh ra trong các gia đình có điều kiện kinh tế ổn định, được học hành đến nơi đến chốn, được nuôi dưỡng no đủ nên khỏe mạnh, hoặc tự nhiên có được các khả năng trổi vượt, chắc chắn sẽ không cần một nhà nước tích cực mà chỉ yêu cầu có tự do. Nhưng hiển nhiên không thể áp dụng cùng một quy tắc ấy cho những người khuyết tật, những người sinh ra trong một gia đình nghèo khổ cùng cực, được giáo dục kém cỏi và không được chăm sóc y tế đầy đủ như họ đáng được. Nếu xã hội được điều hành chủ yếu bởi các tiêu chuẩn của thị trường tự do và duy hiệu năng, thì sẽ không có chỗ cho những con người như thế và tình huynh đệ chỉ là một mỹ từ lãng mạn.
110. Thực ra “tuyên bố về tự do kinh tế trở thành một diễn từ mâu thuẫn khi hoàn cảnh thực tế ngăn cản nhiều người không thực sự tiếp cận được nó và các cơ may tìm được việc làm thì giảm sút”[83]. Những từ ngữ như tự do, dân chủ hay tình huynh đệ đều trở nên vô nghĩa. Vì trong thực tế, “bao lâu hệ thống kinh tế – xã hội của chúng ta còn tạo ra một nạn nhân và bao lâu chỉ còn một người bị gạt bỏ, thì chúng ta không thể ăn mừng tình huynh đệ phổ quát”[84]. Một xã hội thực sự nhân bản và huynh đệ sẽ có khả năng bảo đảm cách bền vững và hữu hiệu chuyện mọi thành viên đều được đồng hành trong mỗi giai đoạn của cuộc đời, không chỉ để đáp ứng các nhu cầu căn bản của họ, mà còn để họ có thể cống hiến những gì tốt nhất của bản thân, cho dù sự cống hiến của họ không nhiều lắm, cho dù họ bước đi chậm chạp hay năng lực của họ có giới hạn.
111. Với những quyền không thể bị tước bỏ, nhân vị, tự bản chất, là mở ra để tương quan. Từ nơi sâu thẳm tâm hồn vang lên tiếng mời gọi chúng ta vượt lên trên chính mình để gặp gỡ người khác. Bởi thế, “cần phải cẩn thận để không rơi vào những lầm lẫn có thể nảy sinh từ việc hiểu sai khái niệm nhân quyền và sử dụng sai các quyền đó. Thực vậy, ngày nay người ta có xu hướng đòi hỏi quyền cá nhân ngày càng lớn – tôi muốn nói đến tính chất cá nhân chủ nghĩa. Điều này ẩn giấu một quan niệm về nhân vị tách biệt khỏi mọi bối cảnh xã hội và nhân học, con người được xem gần giống như một “đơn tử” (monad), ngày càng vô cảm với mọi sự […]. Nếu các quyền của cá nhân không được sắp đặt hài hòa với thiện ích lớn hơn, thì rốt cuộc quyền đó sẽ tự cho mình là vô giới hạn và từ đó trở thành nguồn xung đột và bạo lực”[85].
CỔ VÕ SỰ THIỆN LUÂN LÝ
112. Chúng ta không thể không nói rằng việc mong muốn và tìm kiếm điều tốt đẹp cho người khác và cho toàn thể nhân loại cũng hàm ý việc cố giúp con người và xã hội trưởng thành trong việc sống các giá trị luân lý làm phát triển con người toàn diện. Trong Tân Ước, có nói tới một trong những hoa trái của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,22) được diễn tả bằng từ Hy lạp agathosyne. Agathosyne nghĩa là gắn kết với sự thiện, tìm kiếm điều thiện. Hơn nữa, còn là muốn tìm điều có giá trị hơn, điều tốt đẹp nhất cho người khác. Đó là giúp họ trưởng thành, phát triển một cuộc sống lành mạnh, vun trồng các giá trị chứ không chỉ là các thiện ích vật chất. Tiếng La tinh có một diễn ngữ tương tự bene-volentia, nghĩa là thái độ muốn điều tốt đẹp cho người khác. Đó là một ước muốn mạnh mẽ những điều tốt đẹp, một hướng chiều về tất cả những gì tốt đẹp và tuyệt vời, thúc đẩy chúng ta làm phong phú cuộc sống của người khác bằng những điều tốt đẹp, thanh cao và hướng thượng.
113. Về điểm này, tôi lấy làm buồn mà nhấn mạnh rằng “chúng ta bị suy thoái luân lý đã từ rất lâu, chúng ta coi thường đạo đức, lòng nhân ái, niềm tin và sự trung thực. Đã đến lúc phải nhìn nhận ra rằng thói hời hợt vô tư này chẳng có ích gì cho chúng ta. Các nền tảng của đời sống xã hội bị hủy hoại như thế rốt cuộc sẽ khiến chúng ta chống lại nhau chỉ để bảo vệ lợi ích riêng tư”[86]. Chúng ta hãy quay lại với việc cổ võ làm điều thiện, cho bản thân và cho toàn thể nhân loại, và như thế chúng ta sẽ cùng nhau tiến bước hướng tới sự phát triển đích thực và toàn diện. Mọi xã hội cần phải bảo đảm các giá trị được lưu truyền, bằng không điều được lưu truyền sẽ là lòng vị kỷ, bạo lực, đồi trụy dưới nhiều hình thức, sự dửng dưng và, cuối cùng, một cuộc đời khép kín trước chân trời siêu việt và cố thủ trong những lợi ích cá nhân.
Bài này đã được xem 986 lần!