132. Ngoài các biện pháp thiết yếu khác nhau đó, các nước không thể một mình triển khai các giải pháp thỏa đáng “bởi vì hệ quả của sự lựa chọn của mỗi quốc gia chắc chắn sẽ có tác động trên toàn bộ cộng đồng quốc tế”. Do đó, “các đáp ứng chỉ có thể là kết quả của một công trình chung”[113] thực hiện qua việc thiết lập một hệ thống luật pháp toàn cầu liên quan đến vấn đề di dân. Trong mọi trường hợp, “cần phải lập ra các kế hoạch trung hạn và dài hạn, không chỉ giới hạn trong việc ứng phó khẩn cấp. Những kế hoạch này, một mặt sẽ trợ giúp những người di dân hội nhập hữu hiệu vào các quốc gia tiếp nhận họ, mặt khác thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia nguyên quán của họ thông qua các chính sách liên đới. Tuy nhiên, các chính sách này không làm cho việc trợ giúp phụ thuộc vào các chiến lược và những thực hành có tính ý thức hệ xa lạ hoặc mâu thuẫn với văn hóa của các dân tộc được trợ giúp”[114].
NHỮNG QUÀ TẶNG CHO NHAU
133. Những con người khác nhau, đến từ những cảnh đời và văn hóa khác nhau, có thể trở nên quà tặng, bởi vì “chuyện di dân cũng là chuyện gặp gỡ giữa con người và văn hóa: đối với cộng đồng và xã hội tiếp nhận họ, di dân mang đến cơ hội để mọi người được giàu thêm kinh nghiệm và để phát triển con người toàn diện”[115]. Thế nên, “đặc biệt, cha xin các bạn trẻ đừng tham gia vào các mạng lưới của những kẻ muốn dùng các con chống lại các bạn trẻ khác di cư đến đất nước của các con, khi coi họ là những kẻ nguy hiểm và như những người không có cùng phẩm giá bất khả nhượng riêng cho mỗi người”[116].
134. Mặt khác, khi chúng ta chân thành đón nhận người khác, điều này sẽ mang lại cho họ những khả năng phát triển mới mẻ trong khi họ vẫn giữ được bản sắc của mình. Các nền văn hóa khác biệt, qua nhiều thế kỷ đã ngày càng trở nên phong phú, cần được giữ gìn kẻo thế giới chúng ta trở nên nghèo nàn. Đồng thời, những nền văn hóa ấy cần được thúc đẩy để mở ra với những kinh nghiệm mới qua sự gặp gỡ những thực tại khác. Chúng ta không nên coi thường nguy cơ trở thành nạn nhân của sự xơ cứng văn hóa. Đó là lý do tại sao “chúng ta cần giao tiếp với nhau, khám phá những di sản phong phú của nhau, quý trọng những gì nối kết chúng ta lại và xem những dị biệt như là cơ hội phát triển trong sự tôn trọng lẫn nhau. Cần đối thoại trong kiên nhẫn và tin tưởng. Làm sao để các cá nhân, các gia đình và các cộng đồng biết chuyển trao những giá trị văn hóa của mình và đón nhận những giá trị tốt đẹp từ các kinh nghiệm của người khác”[117].
135. Ở đây tôi muốn đề cập đến vài ví dụ mà tôi đã từng đưa ra. Văn hóa La-tinh là “một thứ men mà các giá trị và khả năng của nó đã làm cho đất nước Hoa Kỳ được phong phú thêm về rất nhiều mặt […]. Một làn sóng di cư ồ ạt rốt cuộc bao giờ cũng có ảnh hưởng và làm biến đổi nền văn hóa của một địa phương […]. Làn sóng nhập cư ồ ạt từ Ý đã để lại dấu ấn trên nền văn hóa của xã hội Argentina, và sự có mặt của khoảng 200.000 người Do Thái có ảnh hưởng rất nhiều trên lối sống văn hóa của thành phố Buenos Aires. Nếu những người di dân được giúp đỡ hội nhập vào xã hội thì họ là mối phúc lành, là nguồn phú túc và là quà tặng mới mẻ thúc đẩy xã hội phát triển”[118].
136. Nhìn xa hơn, Đại giáo trưởng Ahmad Al- Tayyeb và tôi đã ghi nhận rằng “mối quan hệ không gì thay thế và cũng không được coi nhẹ giữa Đông và Tây hiển nhiên là mối quan hệ thiết yếu nhờ đó cả hai bên, với nền văn hóa của mình, có thể làm cho nhau trở nên phong phú, thông qua việc trao đổi và đối thoại giữa hai nền văn hóa. Phương Tây có thể khám phá nơi văn minh phương Đông những phương dược cho một số căn bệnh tâm linh và tôn giáo gây ra bởi sự thống trị của chủ nghĩa duy vật. Và phương Đông có thể tìm thấy nơi phương Tây nhiều yếu tố có thể giúp giải thoát khỏi sự yếu nhược, chia rẽ, xung đột cùng với sự yếu kém về khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Cần phải quan tâm đến các khác biệt về tôn giáo, văn hóa và lịch sử, vốn là thành tố cốt yếu trong việc định hình nhân cách, văn hóa, và văn minh của phương Đông. Cũng cần phải củng cố các quyền căn bản của con người, nhằm góp phần bảo đảm một đời sống có phẩm giá cho mọi người ở phương Đông và phương Tây, tránh những chính sách với chuẩn mực nước đôi”[119].
Một sự trao đổi đầy hoa trái
137. Sự trợ giúp lẫn nhau giữa các quốc gia xét cho cùng sẽ sinh lợi cho tất cả. Mỗi quốc gia tiến bộ dựa trên nền tảng văn hóa gốc của mình là một kho tàng cho toàn thể nhân loại. Cần phải ý thức hơn nữa rằng ngày nay hoặc chúng ta cùng được cứu thoát hoặc không ai được cứu cả. Nghèo đói, suy đồi và đau khổ ở một vùng nào đó trên trái đất sẽ âm thầm phát sinh ra nhiều vấn đề mà cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến toàn thể hành tinh chúng ta. Nếu chúng ta lo lắng vì một chủng loài nào đó bị tận tuyệt, thì chúng ta lại càng phải lo lắng hơn vì ở nhiều nơi trên thế giới có những người và những dân tộc mà các tiềm năng và vẻ đẹp của họ không được phát triển do nghèo đói hay bởi những giới hạn khác về cơ cấu. Bởi vì, chuyện này cuối cùng rồi sẽ làm tất cả chúng ta trở nên nghèo nàn.
138. Nếu điều đó đã luôn luôn đúng, thì ngày nay nó đúng hơn bao giờ hết, vì thế giới hiện tại liên kết với nhau rất chặt chẽ bởi hiện tượng toàn cầu hóa. Chúng ta cần đạt được một trật tự pháp lý, chính trị và kinh tế có tính toàn cầu, khả dĩ “làm gia tăng và định hướng cho việc hợp tác quốc tế vì sự phát triển tất cả các dân tộc trong tình liên đới”[120]. Cuối cùng, điều này sẽ mang lại lợi ích cho toàn thế giới, bởi vì “việc trợ giúp cho các nước nghèo được phát triển” cũng có nghĩa là “tạo nên của cải cho mọi người”[121]. Từ quan điểm phát triển toàn diện, điều này cũng giả thiết phải “để cho các nước nghèo có tiếng nói hữu hiệu đóng góp vào những quyết định chung”[122] và “tạo điều kiện cho các nước nghèo và kém phát triển dễ dàng tiếp cận với thị trường quốc tế”[123].
Sẵn sàng đón tiếp vô điều kiện
139. Tuy nhiên, tôi không muốn giản lược ý tưởng này vào một loại thuyết vị lợi. Cần có tinh thần “vô vị lợi”. Đó là khả năng làm điều gì đó chỉ vì tự thân điều ấy là tốt, không mong nhận được kết quả nào, không mong được đền đáp tức thời. Tinh thần vô vị lợi khiến chúng ta có thể đón tiếp người xa lạ, ngay cả khi điều này không đem lại cho chúng ta lợi ích cụ thể nào. Thực tế, một số quốc gia chỉ muốn đón nhận các nhà khoa học hoặc các nhà đầu tư mà thôi.
140. Ai không sống tình huynh đệ vô vị lợi thì cuộc sống người ấy sẽ biến thành cuộc mua bán đổi chác nhọc nhằn, luôn cân đo đong đếm điều mình cho đi và nhận lại. Trái lại, Thiên Chúa luôn trao tặng một cách vô vị lợi, đến độ Ngài trợ giúp cả những người bất tín với Ngài. “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,45). Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo” (Mt 6,3-4). Chúng ta đón nhận sự sống cách nhưng không, chúng ta đã không phải trả giá nào cho sự sống cả. Do đó, tất cả chúng ta có thể cho đi mà không mong được đền đáp bất cứ điều gì, làm điều tốt lành cho người khác mà không đòi hỏi họ phải đáp lại bằng cách đối xử tốt với mình. Như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10,8).
141. Giá trị thực sự của các quốc gia trên thế giới được đo bằng khả năng ý thức mình không chỉ là một quốc gia mà còn như một gia đình của nhân loại. Điều này được đặc biệt tỏ lộ trong các thời kỳ khủng hoảng. Các hình thức chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, xét cho cùng, là biểu hiện của việc không có khả năng sống tinh thần vô vị lợi này. Họ sai lầm khi nghĩ rằng có thể tự mình phát triển mà chẳng quan tâm gì đến thảm họa ở các quốc gia khác, và cho rằng đóng kín cửa thì sẽ được bảo vệ tốt hơn. Di dân bị coi là kẻ đến chiếm đoạt chẳng cống hiến được gì. Điều này dẫn họ đến niềm tin ngây ngô cho rằng người nghèo thì nguy hiểm hoặc vô dụng, trong khi người có quyền lực là ân nhân đầy lòng quảng đại. Chỉ có nền văn hóa xã hội và chính trị nào sẵn sàng đón tiếp người khác một cách vô vị lợi mới có tương lai.
ĐỊA PHƯƠNG VÀ TOÀN CẦU
142. Chúng ta nên nhớ rằng “có sự căng thẳng giữa toàn cầu hóa và địa phương hóa. Chúng ta cần lưu ý đến tầm vóc toàn cầu để không rơi vào suy nghĩ hẹp hòi nông cạn. Đồng thời cũng cần để mắt đến những gì xảy ra ở địa phương, là nơi chân chúng ta chạm đất. Cả hai chiều kích ấy hợp lại giúp chúng ta không bị rơi vào hai thái cực. Ở thái cực này, các công dân phải sống trong một thế giới toàn cầu hóa trừu tượng. […] Ở thái cực kia, họ trở thành một viện bảo tàng dân gian địa phương, một thế giới tách biệt, cứ quanh quẩn mãi với những cái cũ kỹ, không có khả năng đối mặt với những thách thức khác lạ và quý chuộng cái đẹp mà Thiên Chúa ban cho bên ngoài biên giới của mình”[124]. Chúng ta cần có một tầm nhìn mang tính toàn cầu để giải thoát mình khỏi não trạng địa phương cục bộ. Khi ngôi nhà của chúng ta không còn là tổ ấm và bắt đầu trở thành một khu nội cấm, một nhà tù, thì tầm nhìn toàn cầu sẽ giải cứu chúng ta, vì nó như là một “nguyên nhân cứu cánh” sẽ lôi kéo chúng ta đến chỗ thành toàn. Đồng thời, cũng phải nhiệt tâm gìn giữ tính địa phương, vì tính địa phương có cái mà tính toàn cầu không có. Đó là khả năng trở nên men, đem lại sự phong phú, kích hoạt các cơ chế bổ trợ. Vì thế tình huynh đệ phổ quát và tình bằng hữu xã hội là hai cực không thể tách rời và cùng mang tình cốt yếu của mọi xã hội. Tách rời hai yếu tố ấy sẽ làm mỗi bên biến dạng và tạo ra sự phân cực nguy hiểm.
Sắc thái địa phương
143. Giải pháp ở đây không phải là một sự cởi mở để rồi phá bỏ kho tàng riêng của mình. Không thể có đối thoại với người khác mà không ý thức về căn tính của mình, cũng vậy, không thể có sự cởi mở giữa hai dân tộc nếu không phát xuất từ tình yêu đối với đất nước, dân tộc và cội rễ văn hóa của mình. Chúng ta không thể thật sự gặp gỡ người khác nếu không đứng trên một nền móng vững chắc, vì chính trên nền móng này mà chúng ta có thể đón nhận quà tặng của người khác, và trao tặng món quà đích thực của mình. Chúng ta chỉ có thể tiếp đón tha nhân, là những người khác biệt, và trân trọng sự đóng góp độc đáo của họ khi chúng ta bén rễ chắc chắn trong dân tộc và văn hóa của mình. Mỗi người, với tất cả trách nhiệm, hãy yêu mến, chăm sóc xứ sở và lo lắng cho quê hương đất nước của mình, cũng như mỗi người phải yêu mến và chăm sóc ngôi nhà của mình để nó khỏi sụp đổ, vì những người hàng xóm sẽ chẳng làm điều đó thay ta. Cũng thế, thiện ích chung của thế giới đòi hỏi mỗi người phải bảo vệ và yêu mến quê hương mình. Nếu không, hậu quả của các thảm họa ở mỗi quốc gia cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến toàn thể hành tinh. Những điều này làm nổi bật ý nghĩa tích cực của quyền sở hữu tài sản: Tôi bảo vệ và vun trồng những gì tôi sở hữu, sao cho nó có thể góp phần vào thiện ích của mọi người.
144. Hơn nữa, điều đó cũng giả thiết phải có những cuộc trao đổi lành mạnh và phong phú. Kinh nghiệm sống ở một nơi và trong một nền văn hóa cụ thể là cơ sở cho phép ta hiểu biết sâu xa những khía cạnh của thực tại mà những người không có kinh nghiệm đó không thể dễ dàng nắm bắt được. Phổ quát toàn cầu không nhất thiết có nghĩa là mọi sự đều thuần nhất, đồng dạng, và chuẩn hóa theo một mô hình văn hóa phổ biến duy nhất, vì điều này rốt cuộc sẽ làm mất đi nét phong phú đa diện muôn sắc màu và tất cả sẽ hóa ra tẻ nhạt. Đó chính là cám dỗ như trong trình thuật cổ xưa về Tháp Babel: cố gắng xây nên một ngọn tháp vươn tới trời nhưng không diễn tả sự hiệp nhất giữa các dân tộc có khả năng thông truyền cho nhau sự đa dạng của mình. Trái lại, đó là một nỗ lực sai lầm, phát xuất từ lòng kiêu ngạo và tham vọng muốn tạo nên một sự hiệp nhất khác với sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn trong kế hoạch quan phòng của Ngài dành cho các dân tộc (x. St 11,1-9).
145. Việc mở ra với chiều kích phổ quát có thể là giả hiệu, khi phát xuất từ những người nông cạn, không có khả năng thấu hiểu tận cùng những thực tại của xứ sở mình, hoặc những người còn nuôi dưỡng sự oán hận khôn nguôi đối với dân tộc mình. Dù trường hợp nào đi nữa, “phải không ngừng mở rộng tầm nhìn để thấy rõ sự thiện hảo lớn hơn đem lại lợi ích cho tất cả chúng ta. Nhưng cần phải làm như thế, không thoái thác cũng không để bị mất gốc. Cần phải bén rễ sâu hơn vào mảnh đất màu mỡ và lịch sử của chính xứ sở mình, vốn là quà tặng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm những việc nhỏ bé, gần gũi trong tầm tay, nhưng với một tầm nhìn rộng lớn hơn. […] Đây không phải là một khối cầu tròn trịa gây hủy bỏ, cũng không phải là một bộ phận tách rời làm cằn cỗi”[125], mà là một khối đa diện, trong đó giá trị của mỗi cá nhân được tôn trọng, ở đó “toàn thể thì lớn hơn từng phần, và cũng lớn hơn tổng số các thành phần”[126].
Chân trời phổ quát
146. Có những thứ ái kỉ, bị ám ảnh bởi tính cục bộ địa phương, chứ không phải là tình yêu lành mạnh đối với dân tộc và văn hóa của mình. Những người ái kỉ đó che giấu một não trạng khép kín, bởi sự bất an và lo sợ nào đó đối với người khác, từ đó muốn dựng lên những bức tường bảo vệ chính mình. Thế nhưng, không thể có cảm thức “địa phương” lành mạnh mà lại thiếu tinh thần cởi mở chân thành và thân thiện đối với thực tại phổ quát, không cảm thấy bị chất vấn bởi những gì đang xảy ra ở nơi khác, không để cho mình được phong phú hơn nhờ các nền văn hóa khác cũng như không liên đới và quan tâm tới những thảm kịch đang xảy đến với các dân tộc khác. Trong khi đó, người ái kỉ mang tính địa phương cục bộ cứ quanh quẩn thường xuyên với một số ý nghĩ, một vài thói quen và hình thức an toàn nào đó, không có khả năng thán phục trước vô vàn những tiềm năng và vẻ đẹp được cả thế giới rộng lớn dâng hiến; họ thiếu tinh thần liên đới chân thực và quảng đại. Với lối sống mang não trạng cục bộ địa phương như thế, người ta sẽ không còn thực sự đón nhận gì nữa, sẽ không còn mở ra để người khác giúp mình hoàn thiện. Bởi thế, người ta chỉ giới hạn và dựa vào khả năng riêng để phát triển bản thân; cuộc sống trở nên tù hãm và bệnh hoạn. Vì, thật ra, một nền văn hóa lành mạnh tự bản chất thì cởi mở và hiếu khách, “một nền văn hóa mà không có các giá trị phổ quát thì đó không phải là một nền văn hóa thật”[127].
147. Phải nhìn nhận rằng khi tâm hồn và trí óc của chúng ta càng hạn hẹp thì chúng ta càng ít có khả năng thấu hiểu thực tại chung quanh mình. Nếu không gặp gỡ và tiếp xúc với những người khác với mình, chúng ta sẽ khó biết rõ và đầy đủ về chính mình, về quê hương xứ sở mình. Các nền văn hóa khác không phải là “kẻ thù” mà chúng ta cần phải chiến đấu để bảo vệ mình, nhưng là những phản ánh khác nhau trong kho tàng phong phú vô tận của đời sống con người. Nhìn mình từ quan điểm của một người khác, khác với mình, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy và nhận thấy rõ ràng hơn những nét độc đáo của bản thân cũng như của nền văn hóa của mình: sự phong phú, những khả năng và những giới hạn của nó. Kinh nghiệm địa phương của chúng ta cần được triển nở trong “sự tương phản” cũng như trong “sự hòa hợp” với kinh nghiệm của những người sống trong các bối cảnh văn hóa khác[128].
148. Thật ra, sự cởi mở lành mạnh sẽ chẳng bao giờ đe dọa bản sắc riêng của ai cả. Được thêm phong phú nhờ các yếu tố đến từ nơi khác, một nền văn hóa sống động không du nhập hay chỉ sao chép, nhưng hội nhập các yếu tố mới ấy theo phương cách độc đáo của mình. Kết quả chung cuộc là một tổng hợp mới có ích cho tất cả, vì chính nền văn hóa nguyên gốc ấy cũng được nuôi dưỡng phát triển. Bởi thế tôi khuyến khích các dân bản xứ bảo tồn cội rễ và nền văn hóa tổ tiên của mình. Tuy nhiên, tôi muốn xác định rằng tôi không có ý định đề nghị một “chủ nghĩa bản địa” hoàn toàn khép kín, phi lịch sử, tĩnh tại, loại bỏ mọi pha trộn khác”, vì “bản sắc văn hóa riêng được đào sâu và trở nên phong phú là nhờ đối thoại với các nền văn hóa khác và phương cách thật sự bảo tồn nó không phải là cô lập mình, là điều chỉ làm mình nghèo nàn đi”[129]. Thế giới phát triển và chứa đầy vẻ đẹp mới mẻ nhờ những tổng hợp nối tiếp nhau được phát sinh giữa các nền văn hóa cởi mở và không có bất cứ hình thức áp đặt văn hóa nào.
Bài này đã được xem 980 lần!