THÔNG ĐIỆP VỀ VIỆC CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG CỦA CHÚNG TA – LAUDATO SI’

139. Khi nói về “môi trường”, chúng ta thực sự muốn nói đến mối tương quan tồn tại giữa thiên nhiên và xã hội đang sống trong đó. Không thể xem thiên nhiên như một thứ tách rời khỏi bản thân chúng ta hoặc như một bối cảnh thuần tuý để chúng ta sống trong đó. Chúng ta là một phần của thiên nhiên, được hội nhập trong thiên nhiên và liên tục tương tác với thiên nhiên. Để nhận biết lý do một khu vực bị ô nhiễm, cần phải có một loạt nghiên cứu về xã hội, kinh tế, các lối hành xử và cách thức nắm bắt thực tại của nó. Với quy mô thay đổi quá lớn, chúng ta không thể tìm được một câu trả lời cụ thể, đặc thù cho từng phần của vấn đề. Nhất thiết phải tìm kiếm những giải pháp toàn diện suy xét tất cả các tương tác trong chính hệ thống thiên nhiên và với các hệ thống xã hội. Chúng ta không đối diện với hai cuộc khủng hoảng riêng biệt của môi trường và xã hội, nhưng đối diện với một cuộc khủng hoảng phức tạp duy nhất cả về xã hội lẫn môi trường. Các chiến lược cho một giải pháp đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện để chống lại đói nghèo, khôi phục phẩm giá cho người bị loại trừ và đồng thời bảo vệ thiên nhiên. 

140. Do có nhiều yếu tố khác nhau cần xem xét khi xác định một hoạt động cụ thể ảnh hưởng thế nào đến môi trường, nhất định phải nhìn nhận vai trò đặc biệt của các nhà nghiên cứu, tạo điều kiện cho tương tác của họ được dễ dàng và đảm bảo sự tự do học thuật cho họ. Cuộc nghiên cứu hiện nay cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về cách các thụ tạo liên kết với nhau để tạo nên những đơn vị rộng lớn hơn mà ngày nay chúng ta gọi bằng thuật ngữ “hệ sinh thái”. Chúng ta xem xét những hệ thống này không chỉ để tìm cách sử dụng chúng hợp lý nhất, nhưng còn vì chúng có giá trị nội tại độc lập với việc sử dụng chúng. Mỗi sinh vật trong tư cách là thụ tạo của Thiên Chúa, đều tốt lành và đáng trân trọng; tương tự như thế, mỗi sinh vật đều có ý nghĩa trong tổng thể hài hòa của một không gian nhất định và có chức năng như một hệ thống. Dù chúng ta không luôn ý thức về điều đó, nhưng chúng ta tồn tại nhờ những hệ thống lớn lao này. Chúng ta chỉ cần nhắc đến tương tác giữa các hệ sinh thái để phân tán khí CO2, lọc nước, kiểm soát bệnh tật và bệnh dịch, hình thành đất đai, phân hủy chất thải, và nhiều cách khác mà chúng ta bỏ qua hay không biết đến. Một khi các nhà nghiên cứu ý thức về điều này, nhiều người sẽ nhận ra rằng chúng ta đang sống và hành động theo cơ sở của thực tại đã được ban cho chúng ta trước đó, đi trước hiện hữu và khả năng của chúng ta. Vì thế, khi nói về “việc sử dụng bền vững”, chúng ta phải luôn luôn xem xét khả năng tái tạo của mỗi hệ sinh thái trong các lãnh vực và khía cạnh khác nhau. 

141. Tăng trưởng kinh tế có xu hướng tạo ra những cơ chế và sự đồng nhất nhằm giảm bớt thủ tục và các khoản chi phí. Điều này đòi hỏi một “sinh thái học kinh tế” có khả năng thúc đẩy tầm nhìn rộng hơn về thực tại. Thật vậy, bảo vệ môi trường là “một phần thiết yếu của tiến trình phát triển và không thể tách riêng khỏi tiến trình để xem xét được”.[114] Chúng ta rất cần một chủ nghĩa nhân văn có khả năng quy tụ các lãnh vực tri thức lại với nhau, bao gồm cả kinh tế, để phục vụ một tầm nhìn toàn diện và hội nhập hơn. Ngày nay, việc phân tích các vấn đề môi trường không thể tách rời khỏi việc phân tích con người, gia đình, việc làm và các bối cảnh đô thị; cũng vậy, cách thức cá nhân tương quan với bản thân sẽ thể hiện trong cách họ tương quan với tha nhân và với môi trường. Có một mối liên hệ qua lại giữa các hệ sinh thái và giữa các lãnh vực khác nhau của tương tác xã hội, một lần nữa cho thấy rằng “tổng thể thì lớn hơn từng phần”.[115]

142. Nếu mọi thứ có liên hệ với nhau thì sự lành mạnh của các tổ chức xã hội cũng có tác động đối với môi trường và phẩm chất cuộc sống con người. “Mọi vi phạm đến tình liên đới và tình bằng hữu dân sự đều làm tổn hại đến môi trường”.[116] Theo nghĩa này, sinh thái học xã hội nhất định phải có thể chế và dần dần mở rộng ra đến toàn thể xã hội, từ nhóm xã hội đầu tiên là gia đình, đến địa phương rộng hơn là các cộng đồng quốc gia và quốc tế. Bên trong mỗi giai tầng xã hội, và giữa chúng với nhau, các thể chế phát triển để điều tiết các mối tương quan của con người. Bất cứ điều gì làm suy yếu những thể chế này đều có những tác động tiêu cực, như bất công, bạo lực và mất tự do. Một số quốc gia bị chi phối bởi một hệ thống thể chế bấp bênh, tạo nên những vấn đề lớn cho người dân, trong khi có những người trục lợi từ hoàn cảnh ấy. Dù là trong việc quản lý của nhà nước, của các cấp độ xã hội dân sự, hay các mối tương quan giữa các cá nhân, ngày nay tình trạng thiếu tôn trọng luật pháp trở nên phổ biến hơn. Luật pháp có thể được thiết lập tốt nhưng vẫn là chữ chết. Trong những trường hợp như thế, liệu chúng ta có thể hy vọng pháp lý và các quy định liên quan đến môi trường sẽ thực sự hữu hiệu? Ví dụ, các quốc gia có luật pháp rõ ràng về việc bảo vệ rừng vẫn tiếp tục im lặng khi họ thấy luật pháp liên tục bị vi phạm. Hơn thế nữa, điều xảy ra ở bất kì một khu vực nào có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến những khu vực khác. Do đó, việc tiêu thụ thuốc gây nghiện ở các xã hội giàu có sẽ thúc đẩy gia tăng liên tục lượng sản phẩm xuất khẩu từ những vùng nghèo hơn, nơi đó sẽ có tham nhũng, sự sống bị phá hủy và môi trường tiếp tục suy thoái.

II. SINH THÁI HỌC VĂN HOÁ

143. Cùng với di sản thiên nhiên, cũng có di sản lịch sử, nghệ thuật và văn hoá đang bị đe doạ. Di sản này là một phần của bản sắc địa phương và là một nền tảng để xây dựng thành phố có thể sinh sống được. Vấn đề không phải là phá đổ cái cũ và xây dựng các thành phố mới, giả thiết nơi đó có sự tôn trọng môi trường hơn nhưng không chắc là nơi hấp dẫn hơn để sinh sống. Hơn nữa, cần phải kết hợp lịch sử, văn hoá và kiến trúc của mỗi địa phương để bảo tồn bản sắc nguyên thủy của nó. Sinh thái học cũng liên quan đến việc bảo vệ các kho tàng văn hoá của nhân loại theo nghĩa rộng nhất. Cụ thể hơn, nó đòi hỏi phải quan tâm hơn đến nền văn hoá địa phương khi nghiên cứu các vấn đề môi trường, cổ võ cuộc đối thoại giữa ngôn ngữ khoa học – kĩ thuật và ngôn ngữ của người dân. Văn hoá không chỉ là những gì chúng ta thừa hưởng từ quá khứ, nhưng trên hết là một thực tại sống động, năng động và thông phần trong hiện tại. Chúng ta không được loại trừ điều này khi nghĩ đến mối tương quan giữa con người và môi trường.

144. Quan điểm tiêu thụ của con người, được các cơ chế của nền kinh tế toàn cầu hiện nay cổ võ, có tác động san bằng các nền văn hoá, hạ thấp sự đa dạng phong phú vốn là di sản của toàn thể nhân loại. Nỗ lực giải quyết tất cả mọi vấn đề với những quy định thống nhất hoặc can thiệp kĩ thuật có thể dẫn đến việc coi thường tính phức tạp của những vấn đề địa phương cần sự tham dự tích cực của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Những tiến trình mới có thể không phù hợp với khung hoạt động được đề xuất từ bên ngoài; chúng cần được dựa trên chính nền văn hoá địa phương. Như sự sống và thế giới là những thực tại năng động, sự chăm sóc của chúng ta dành cho thế giới cũng phải linh hoạt và năng động. Các giải pháp thuần tuý kỹ thuật gặp rủi ro ngay khi chạm tới những hiện tượng bên ngoài, chứ chưa nói đến những vấn đề bên trong nghiêm trọng hơn. Cần tôn trọng quyền của các dân tộc và các nền văn hoá. Cần hiểu rằng sự phát triển của một nhóm xã hội giả thiết một tiến trình lịch sử diễn ra trong bối cảnh văn hóa, đòi hỏi sự tham dự thường trực và năng động của người dân địa phương trong chính nền văn hoá của họ. Khái niệm về phẩm chất cuộc sống cũng không thể được áp đặt từ bên ngoài, vì phải hiểu phẩm chất cuộc sống trong thế giới biểu tượng và tập quán riêng của mỗi nhóm người. 

145. Nhiều hình thức khai thác và hạ giá môi trường không chỉ làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên đang cung cấp kế sinh nhai cho các cộng đồng địa phương, mà còn xoá bỏ những cấu trúc xã hội đã hình thành nên bản sắc văn hoá, cảm thức về ý nghĩa cuộc sống và cộng đồng trong một thời gian dài. Sự biến mất của một nền văn hoá có thể nghiêm trọng như hoặc hơn sự biến mất của một số chủng loại thực vật hay động vật. Áp đặt một lối sống thống trị gắn liền với một hình thức sản xuất nhất định cũng nguy hại như làm thay đổi các hệ sinh thái. 

146. Theo nghĩa này, rất cần phải thể hiện sự quan tâm đặc biệt dành cho các cộng đồng bản địa và truyền thống văn hoá của họ. Họ không phải là một thiểu số trong số các cộng đồng khác, nhưng là những đối tác quan trọng, nhất là khi đưa ra những dự án lớn ảnh hưởng đến đất đai của họ. Đối với họ, đất đai không phải là một món hàng nhưng là một món quà từ Thiên Chúa và từ ông bà tổ tiên là những người đang yên nghỉ ở đó; đất là một không gian thánh thiêng mà họ cần phải tương tác nếu muốn tiếp tục duy trì bản sắc và giá trị của họ. Khi ở trên đất của họ, chính họ sẽ chăm sóc nó tốt nhất. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, người ta gây áp lực buộc họ phải rời bỏ quê hương để nhường chỗ cho các dự án nông nghiệp hay khai thác quặng mỏ, những dự án này không đoái hoài gì đến sự suy thoái thiên nhiên và văn hoá. 

III. SINH THÁI HỌC ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

147. Sự phát triển đích thực sẽ thăng tiến toàn diện phẩm chất cuộc sống con người và xem xét bối cảnh sinh sống của họ. Những bối cảnh này ảnh hưởng đến cách nghĩ, cảm nhận và hành động của chúng ta. Trong phòng, trong nhà, nơi làm việc và khu xóm của chúng ta, chúng ta sử dụng môi trường như một cách thể hiện căn tính của chúng ta. Chúng ta nỗ lực để thích nghi với môi trường, nhưng khi nó bị mất trật tự, hỗn loạn hay bão hoà với tiếng ồn và vẻ xấu xí, sự kích thích quá mức sẽ làm cho chúng ta khó hội nhập và cảm thấy hạnh phúc.

148. Có những cá nhân, những nhóm rất sáng tạo và quảng đại đáp ứng những giới hạn của môi trường bằng cách thay đổi những điều kiện bất lợi xung quanh, định hướng cuộc đời của họ giữa những ngổn ngang và bất ổn. Chẳng hạn ở một số nơi, khi mặt tiền nhà trông rất tồi tàn, người dân quan tâm đặc biệt cho phần nội thất của ngôi nhà, hoặc tìm niềm vui trong sự nồng ấm và thân thiện của những người khác. Đời sống xã hội lành mạnh có thể thắp sáng một môi trường mà ban đầu không ai cảm thấy có thể ở được. Đôi khi một nền sinh thái đáng khen ngợi được thực hiện giữa những người nghèo bất chấp biết bao gian khó. Cảm giác ngột ngạt ở những nơi dân cư đông đúc có thể biến tan khi các mối tương quan gần gũi và ấm áp được phát triển, khi các cộng đồng được lập nên, khi những giới hạn của môi trường được đền bù bằng đời sống nội tâm của mỗi người cảm thấy gắn bó trong một mạng lưới liên đới và thuộc về. Bằng cách này, bất cứ nơi nào cũng có thể biến từ địa ngục trần gian thành khung cảnh cho một đời sống tử tế.

149. Tình trạng cực nghèo xảy ra ở những vùng thiếu sự hòa hợp, thiếu không gian mở rộng hoặc tiềm năng để hội nhập, có thể dẫn đến những sự cố vô nhân đạo hay bóc lột của các tổ chức tội phạm. Tại những vùng ngoại ô bất ổn của các thành phố lớn, kinh nghiệm hằng ngày về tình trạng quá tải và vô danh xã hội tạo ra cảm giác bị mất gốc có thể dẫn đến hành vi chống đối xã hội và bạo lực. Tuy nhiên, tôi muốn khẳng định rẳng tình yêu luôn luôn chiến thắng. Nhiều người ở trong hoàn cảnh như thế vẫn có thể đan dệt những mối liên kết thuộc về và cùng nhau, biến sự quá tải thành kinh nghiệm của một cộng đồng biết phá vỡ bức tường của cái tôi và vượt qua những rào cản của ích kỷ. Kinh nghiệm về sự cứu rỗi mang tính cộng đồng này làm nảy sinh những ý tưởng sáng tạo cho sự tiến bộ của một toà nhà hay một khu phố.[117]

150. Vì không gian sống và hành vi của con người có tương quan với nhau, nên những người thiết kế các toà nhà, khu phố, không gian công cộng và thành phố cần sự đóng góp của các ngành khác để giúp chúng ta hiểu được những tiến trình tư duy, ngôn ngữ biểu tượng và cách hành động của người dân. Chỉ tìm kiếm vẻ đẹp của thiết kế thôi thì không đủ. Đáng quý hơn vẫn là việc phục vụ cho một vẻ đẹp khác, đó là phẩm chất cuộc sống của người dân, sự thân thuộc của họ với môi trường, việc gặp gỡ và sự trợ giúp lẫn nhau. Cũng vì thế, chúng ta thấy điều quan trọng khi quy hoạch đô thị là phải xét đến quan điểm của những người sống trong khu vực đó.

151. Cũng cần bảo vệ những khu vực công cộng, địa danh và cảnh quan đô thị, là những nơi làm gia tăng cảm thức thuộc về, cội nguồn, “cảm thấy như ở nhà” trong thành phố của chúng ta và quy tụ chúng ta lại với nhau. Quan trọng là các khu vực của thành phố cần phải liên kết với nhau và những người đang sống ở đó phải có một ý thức về tổng thể, chứ không rút lui vào một khu phố và không nhận thấy thành phố lớn là không gian họ chia sẻ với những người khác. Phải tính toán các yếu tố khác nhau kết hợp lại để tạo thành một tổng thể trong những can thiệp ảnh hưởng đến phong cảnh đô thị hay nông thôn, và tổng thể ấy phải được cư dân tiếp nhận như một khuôn khổ phù hợp và ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Những người khác sẽ không bị coi là người xa lạ, nhưng là một phần của cái “chúng ta” mà tất cả chúng ta đang nỗ lực xây dựng. Vì thế, trong những bối cảnh đô thị và nông thôn, thật hữu ích khi dành riêng và bảo vệ một số nơi khỏi những thay đổi do can thiệp của con người. 

152. Thiếu nhà ở là một vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nơi trên thế giới, cả ở vùng nông thôn lẫn ở những thành phố lớn, vì các khoản ngân sách nhà nước chỉ chi trả một phần rất nhỏ cho nhu cầu này. Không chỉ người nghèo, mà còn nhiều thành phần xã hội khác nữa đều thấy khó sở hữu được một ngôi nhà. Sở hữu được ngôi nhà có tầm quan trọng lớn đối với phẩm giá cá nhân và sự phát triển của gia đình. Đây là một vấn đề chính đối với sinh thái học con người. Ở một số nơi có những khu phố ổ chuột tạm thời mọc lên, điều nên làm là phát triển những khu vực ấy thay vì đập phá hay trục xuất cư dân ở đó. Khi người nghèo sống trong những khu ổ chuột mất vệ sinh hay trong những khu chung cư nguy hiểm, “trong những trường hợp phải tái định cư, để không chồng chất đau khổ cho người dân, cần phải cung cấp đầy đủ thông tin với những chọn lựa về nhà cửa tử tế và những người trực tiếp liên quan phải được quyền tham dự vào tiến trình đó”.[118] Đồng thời, phải có sự sáng tạo để kết hợp những khu phố xuống cấp với thành phố đang mong ước: “Thật tuyệt vời biết bao khi những thành phố này vượt thắng được sự thiếu tin tưởng, kết hợp với những người khác và làm cho sự kết hợp này trở thành một yếu tố mới cho sự phát triển! Thật hấp dẫn biết bao các thành phố, ngay trong bản thiết kế kiến trúc đã có đầy những không gian kết nối, tương quan và ưu tiên tiếp nhận người khác!”[119]

153. Phẩm chất cuộc sống ở các thành phố có nhiều liên hệ với hệ thống giao thông, là một nguồn gây phiền toái cho người sử dụng. Nhiều xe hơi lưu thông trong các thành phố tạo ra tình trạng kẹt xe, gia tăng mức độ ô nhiễm và tiêu thụ khối lượng lớn năng lượng không tái tạo được. Nó còn đòi hỏi phải xây dựng nhiều đường sá và các khu vực đậu xe khiến cảnh quan đô thị bị phá hoại. Nhiều chuyên gia đồng ý về sự cần thiết dành ưu tiên cho phương tiện giao thông công cộng. Tuy nhiên, một vài giải pháp cần thiết sẽ không dễ dàng được xã hội chấp nhận, nếu những cải tiến đó không được thực hiện ngay trong chính hệ thống của những thành phố mà người dân đang phải chịu đựng những điều kiện không tốt vì đông đúc, bất tiện, các dịch vụ thất thường và thiếu an toàn.

Bài này đã được xem 1028 lần!

Pages ( 10 of 17 ): <1 ... 89 10 1112 ... 17>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]