154. Việc tôn trọng phẩm giá làm người của chúng ta thường bị phiền nhiễu bởi những thực tại hỗn loạn mà con người phải chịu đựng trong đời sống đô thị. Tuy nhiên, điều này không được làm cho chúng ta thiếu quan tâm đến những kinh nghiệm bị bỏ rơi và loại trừ của nhiều cư dân vùng nông thôn luôn thiếu những dịch vụ thiết yếu, hay của những công nhân ở trong điều kiện lao động khổ sai, không có quyền lợi và thậm chí không có hy vọng về một cuộc sống tử tế hơn.
155. Sinh thái học con người cũng hàm chứa một thực tại sâu xa khác: mối tương quan giữa đời sống con người và luật luân lý, đã được khắc ghi vào trong bản tính của chúng ta và cần thiết cho việc tạo nên một môi trường có phẩm giá hơn. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nói về “sinh thái học con người”, dựa trên sự thật là “con người cũng có một bản chất mà chính con người phải tôn trọng và không được tự ý thao túng nó”.[120] Cần nhìn nhận rằng chính thân xác chúng ta đặt chúng ta trong mối tương quan với môi trường và với những sinh vật khác. Đón nhận thân xác như món quà của Thiên Chúa là cần thiết để đón tiếp và chấp nhận toàn thế giới như quà tặng từ Chúa Cha và ngôi nhà chung của chúng ta. Lý luận rằng chúng ta có quyền tuyệt đối trên thân xác sẽ biến thành ý nghĩ chúng ta có quyền tuyệt đối trên công trình tạo dựng một cách tinh vi. Biết đón nhận thân xác của chúng ta, chăm sóc và tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của nó, là một yếu tố thiết yếu của bất cứ một sinh thái học đích thực nào về con người. Cũng thế, nhận biết giá trị của thân xác trong phái tính nữ hay nam là điều cần thiết để nhận biết chính mình trong cuộc gặp gỡ với người khác. Như thế chúng ta có thể vui vẻ chấp nhận quà tặng cụ thể của một người nam hay người nữ khác, đón nhận công trình của Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, và thấy được sự phong phú hỗ tương. Chỉ tìm cách “xóa bỏ khác biệt giới tính vì không biết đối diện với nó thế nào” là một thái độ không lành mạnh.[121]
IV. NGUYÊN TẮC VỀ THIỆN ÍCH CHUNG
156. Sinh thái học con người không thể tách rời khái niệm về thiện ích chung, là nguyên tắc đạo đức xã hội trọng tâm và thống nhất. Thiện ích chung là “tổng thể những điều kiện của đời sống xã hội cho phép các nhóm xã hội và các thành viên cá thể đạt đến sự thành toàn của họ một cách tương đối hoàn hảo và dễ dàng”.[122]
157. Thiện ích chung bao hàm sự tôn trọng con người đã được phú ban những quyền cơ bản và bất khả xâm phạm hướng tới sự phát triển toàn diện. Nó cũng đòi hỏi như thế đối với chế độ phúc lợi xã hội và sự phát triển của nhiều nhóm trung gian theo nguyên tắc bổ trợ. Nổi bật lên trong các nhóm này là gia đình – tế bào nền tảng của xã hội. Sau cùng, thiện ích chung kêu gọi hoà bình xã hội, sự ổn định và an ninh của một trật tự nhất định là điều không thể đạt được nếu không quan tâm cụ thể đến sự phân phối công bằng; bất cứ khi nào điều này bị vi phạm, bạo lực sẽ luôn tiếp diễn. Xã hội nói chung và đặc biệt là nhà nước buộc phải bảo vệ và cổ võ thiện ích chung.
158. Trong hoàn cảnh hiện tại của xã hội toàn cầu, những bất công tồn tại và số người bị tước đoạt nhân quyền cơ bản và bị loại trừ gia tăng, nguyên tắc thiện ích chung lập tức trở thành một mệnh lệnh liên đới và chọn lựa ưu tiên cho người nghèo khổ trong số anh chị em của chúng ta, như một hệ quả logic và không thể né tránh. Chọn lựa này đòi hỏi phải nhìn nhận mọi của cải trên thế giới đều có đích điểm chung, nhưng như tôi đã đề cập trong Tông huấn Evangelii Gaudium,[123] điều này trước hết đòi phải trân trọng phẩm giá của người nghèo dưới ánh sáng của những xác tín sâu thẳm nhất của chúng ta trong tư cách là người tín hữu. Chúng ta chỉ cần nhìn xung quanh sẽ thấy rằng, ngày nay, chọn lựa này thực sự là mệnh lệnh đạo đức thiết yếu để đạt tới thiện ích chung cách hữu hiệu.
V. CÔNG BẰNG GIỮA CÁC THẾ HỆ
159. Khái niệm về thiện ích chung cũng mở rộng tới các thế hệ tương lai. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra những tác động nguy hại rõ ràng và đau đớn cho định mệnh chung của chúng ta, trong đó có cả những người đến sau chúng ta. Chúng ta không còn có thể nói về sự phát triển bền vững tách rời khỏi sự liên đới giữa các thế hệ. Nghĩ đến thế giới mà chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ tương lai, chúng ta sẽ nhìn mọi sự theo cách khác; chúng ta nhận biết rằng thế giới là một quà tặng đã được lãnh nhận cách nhưng không thì cũng phải chia sẻ với những người khác cách nhưng không. Vì thế giới đã được trao ban cho chúng ta, nên chúng ta không thể nhìn thực tại một cách thực dụng thuần tuý, trong đó hiệu quả và năng suất chỉ hướng đến lợi ích cá nhân. Sự liên đới giữa các thế hệ không mang tính tùy chọn, nhưng nó là một vấn đề căn bản của công bằng, vì thế giới mà chúng ta đã lãnh nhận cũng thuộc về những người sẽ đến sau chúng ta. Hội đồng Giám mục Bồ Đào Nha kêu gọi chúng ta nhìn nhận sự công bằng bó buộc này: “Môi trường nằm trong logic tiếp nhận. Nó là một khoản nợ mà mỗi thế hệ nhận và phải tiếp tục trao lại cho thế hệ kế tiếp”.[124] Một sinh thái học toàn diện sẽ mang tầm nhìn rộng lớn này.
160. Chúng ta muốn trao lại một thế giới như thế nào cho những người đến sau, cho con em của chúng ta hiện đang lớn lên? Câu hỏi này không chỉ liên hệ đến môi trường một cách biệt lập; vấn đề không thể được tiếp cận theo từng mảnh. Khi tự hỏi về thế giới của tương lai, chúng ta trước hết phải nghĩ về định hướng tổng thể của nó, ý nghĩa và các giá trị của nó. Nếu chúng ta không đấu tranh với những vấn đề sâu xa hơn, tôi tin rằng sự quan tâm đến môi trường của chúng ta sẽ không đạt được những kết quả ý nghĩa. Nếu chúng ta can đảm đối diện với những vấn đề này, chúng ta sẽ được dẫn dắt một cách vững vàng đến những câu hỏi khác: Đâu là mục đích của cuộc sống chúng ta trên thế giới này? Tại sao chúng ta ở đây? Đâu là mục tiêu của công việc và tất cả những nỗ lực của chúng ta? Trái đất cần gì ở chúng ta? Do đó, chỉ nói chúng ta phải quan tâm đến các thế hệ tương lai mà thôi thì không đủ. Phải nhìn nhận rằng phẩm giá của chúng ta đang bị đe dọa. Việc để lại một hành tinh không thể sống nổi cho các thế hệ tương lai, trước hết và trên hết, tuỳ thuộc vào chúng ta. Vấn đề này là bi kịch cho chúng ta, vì nó liên hệ đến ý nghĩa tối hậu của cuộc lữ hành trần thế của chúng ta.
161. Không còn có thể khinh miệt và mỉa mai những lời tiên báo về tận thế nữa. Chúng ta chắc chắn sẽ để lại cho thế hệ kế tiếp những mảnh vỡ, hoang mạc và bụi bẩn. Tốc độ tiêu thụ, chất thải và sự biến đổi môi trường đã vượt quá khả năng của hành tinh đến nỗi lối sống hiện tại của chúng ta, vốn đã không ổn định, chỉ có thể tạo ra những thảm hoạ, như chúng ta đã thấy xảy ra định kỳ ở nhiều khu vực trên thế giới. Những tác động của tình trạng mất cân bằng hiện nay chỉ có thể được giảm thiểu bằng hành động dứt khoát của chúng ta, ở đây và bây giờ. Chúng ta phải suy nghĩ về trách nhiệm của chúng ta trước những người sẽ phải gánh chịu hậu quả khốc liệt.
162. Khó khăn của chúng ta khi nghiêm túc đảm nhận thách đố này có liên hệ đến sự suy thoái đạo đức và văn hoá là thứ đi cùng với suy thoái môi trường. Những người nam và người nữ của thế giới hậu hiện đại sẽ gặp mối nguy về chủ nghĩa cá nhân rộng khắp, và nhiều vấn đề xã hội có liên hệ với nền văn hoá quy ngã, tìm sự thoả mãn tức thời của thời đại chúng ta. Chúng ta thấy điều này ở trong cuộc khủng hoảng gia đình, các mối liên kết xã hội và những khó khăn của việc nhìn nhận người khác. Các bậc cha mẹ có thể bị cuốn hút vào việc tiêu thụ và lãng phí quá mức, ảnh hưởng đến con cái của họ sau này rất khó để sở hữu được một căn nhà và xây dựng một gia đình. Hơn nữa, việc không có khả năng suy nghĩ nghiêm túc về các thế hệ tương lai có liên hệ đến sự bất lực của chúng ta trong việc mở rộng chân trời của những mối quan tâm và chú ý đến những người vẫn bị loại trừ khỏi sự phát triển. Chúng ta đừng chỉ nghĩ đến người nghèo của tương lai, hãy nghĩ đến người nghèo của hiện tại, đời sống của họ trên trái đất này ngắn ngủi và họ không chờ đợi được nữa. Do đó, “ngoài cảm thức công bằng hơn về sự liên đới giữa các thế hệ, phải nhắc đến sự cần thiết cấp bách mang tính đạo đức cho một cảm thức mới về tình liên đới trong mỗi thế hệ nữa”.[125]
CHƯƠNG NĂM
ĐƯỜNG HƯỚNG TIẾP CẬN VÀ HÀNH ĐỘNG
163. Cho đến bây giờ, tôi đã nỗ lực để đề cập đến hàng loạt vấn đề hiện tại, nói đến những rạn nứt trong hành tinh của chúng ta cũng như những căn nguyên nhân bản sâu sắc của suy thoái môi trường. Mặc dù chỉ nguyên việc suy ngẫm thực tại này đã cho thấy cần thiết phải thay đổi đường hướng và cách hành động, nhưng giờ đây chúng ta sẽ nỗ lực để vạch ra những con đường chính của việc đối thoại, có thể giúp chúng ta thoát khỏi vòng xoáy của sự tự huỷ diệt hiện đang nhấn chìm chúng ta.
I. ĐỐI THOẠI VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ
164. Bắt đầu vào giữa thế kỷ trước và vượt qua nhiều khó khăn, đã có một sự xác tín lớn mạnh hơn về hành tinh của chúng ta là một quê hương và nhân loại là một dân tộc sống trong một ngôi nhà chung. Thế giới phụ thuộc lẫn nhau không chỉ làm cho chúng ta ý thức về ảnh hưởng tiêu cực của những lối sống, mô hình sản xuất và tiêu thụ nhất định; quan trọng hơn, nó đảm bảo các giải pháp được đề xuất mang góc độ toàn cầu, chứ không chỉ bảo vệ lợi ích của một vài quốc gia. Sự phụ thuộc lẫn nhau buộc chúng ta phải suy nghĩ về một thế giới với một kế hoạch chung. Tuy nhiên, sự thông thái đã đem lại những tiến bộ công nghệ lớn lao lại tỏ ra bất lực trong việc tìm kiếm những cách thức hữu hiệu nhằm giải quyết những vấn đề nghiêm trọng về môi trường và xã hội trên khắp thế giới. Cần có sự đồng thuận toàn cầu mới có thể giải quyết những vấn đề sâu xa hơn, chứ không thể giải quyết bằng những hành động đơn phương của các quốc gia riêng lẻ, như việc lên kế hoạch cho một nền nông nghiệp bền vững và đa dạng, phát triển những hình thức năng lượng tái tạo và ít gây ô nhiễm, khích lệ cách sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, cổ võ cách quản lý các nguồn tài nguyên biển và rừng tốt hơn, đảm bảo mọi người được sử dụng nước uống.
165. Chúng ta biết rằng công nghệ dựa trên việc sử dụng các nguyên liệu hoá thạch có tính gây ô nhiễm cao – đặc biệt là than, nhưng cũng có cả dầu hay thấp hơn là khí – chúng cần phải được thay thế dần dần và không được trì hoãn nữa. Trong khi chờ đợi sự phát triển rộng khắp của các nguồn năng lượng tái tạo, thật hợp lý nếu chúng ta chọn giải pháp thay thế ít gây hại hơn hoặc những giải pháp ngắn hạn. Cộng đồng quốc tế vẫn chưa đạt được những thoả thuận đầy đủ về trách nhiệm chi trả cho sự chuyển đổi năng lượng này. Trong những thập kỷ gần đây, các vấn đề về môi trường đã làm dấy lên cuộc tranh cãi công khai rất đáng chú ý và đã gợi lên một loạt các đáp trả dân sự nhiệt tình và quảng đại. Các chính sách và doanh nghiệp cũng từ từ phản ứng xứng hợp hơn với những thách đố cấp bách mà thế giới chúng ta đang đối diện. Mặc dù thời kỳ hậu công nghiệp có thể được nhớ đến như một trong những thời kỳ vô trách nhiệm nhất trong lịch sử, song cũng có lý do để hy vọng rằng nhân loại trong buổi bình minh của thế kỷ 21 sẽ được nhớ đến vì đã quảng đại gánh vác hết những trọng trách của thời kỳ này.
166. Trên khắp thế giới, phong trào sinh thái đã thực hiện được những bước tiến đáng kể, cũng nhờ vào nỗ lực của nhiều tổ chức xã hội dân sự. Không thể đề cập hết các tổ chức ấy ở đây, hoặc ôn lại lịch sử những đóng góp của họ; nhưng nhờ nỗ lực của họ, các vấn đề về môi trường dần dần tìm được một vị trí trong các chương trình nghị sự công và khích lệ những cách tiếp cận sâu xa hơn. Tuy nhiên, các Hội Nghị Thượng Đỉnh Thế Giới gần đây về môi trường lại không thoả mãn được những mong đợi, vì thiếu ý muốn chính trị, họ không thể đạt tới những thoả thuận toàn cầu đầy đủ ý nghĩa và hiệu quả về môi trường.
167. Chúng ta nên đề cập đến Hội Nghị Thượng Đỉnh về Trái đất năm 1992 tại Rio de Janeiro. Hội Nghị này tuyên bố rằng “con người là trung tâm của các mối quan tâm dành cho sự phát triển bền vững”.[126] Nhắc lại Tuyên Ngôn Stockholm năm 1972, nó nhắc nhớ sự hợp tác quốc tế để chăm sóc cho hệ sinh thái của toàn thể trái đất, nghĩa vụ phải trả giá của những người gây ô nhiễm và bổn phận đánh giá tác động đến môi trường của các dự án và công trình. Bản tuyên ngôn này đưa ra mục tiêu ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển, nhằm đảo ngược xu hướng nóng lên toàn cầu. Bản tuyên ngôn này cũng hoạch định lịch trình với kế hoạch hành động và công ước về sự đa dạng sinh học, và đưa ra các nguyên tắc có liên quan đến lâm nghiệp. Mặc dù hội nghị thượng đỉnh là một bước tiến thực sự và mang tính ngôn sứ, nhưng những thỏa thuận ấy lại được thực hiện cách nghèo nàn, thiếu những cơ chế thích hợp để giám sát, xác minh định kỳ và xử phạt trong những trường hợp không tuân thủ. Các nguyên tắc của bản tuyên ngôn này vẫn đợi chờ các phương thế áp dụng thực tế cách hiệu quả và linh hoạt hơn.
168. Trong số những kinh nghiệm tích cực về vấn đề này, chúng ta có thể đề cập đến Công ước Basel về các chất thải độc hại, với hệ thống báo cáo, các tiêu chuẩn và kiểm soát của nó. Cũng có một Công ước quốc tế về buôn bán các loại động – thực vật nguy cấp, trong đó có những chuyến đi thực tế để xác minh việc tuân thủ hiệu quả. Nhờ Công ước Vienne về việc bảo vệ tầng Ôzôn và việc áp dụng nó thông qua Nghị định thư Montreal và những điều chỉnh, vấn đề các lớp ôzôn bị mỏng đi được đưa vào giai đoạn giải quyết.
169. Chừng nào việc bảo vệ sự đa dạng sinh học và các vấn đề liên quan đến tình trạng sa mạc hoá chưa được quan tâm, thì sự tiến bộ đạt được ít có ý nghĩa. Những tiến bộ về vấn đề biến đổi khí hậu phải nói đáng tiếc là rất ít. Việc giảm các loại khí nhà kính đòi hỏi sự trung thực, can đảm và trách nhiệm, trên hết là từ phía các quốc gia mạnh hơn và gây ô nhiễm nhiều hơn. Hội nghị về Phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc “Rio+20” (Rio de Janeiro 2012), đã ban hành một văn kiện bao quát nhưng không hiệu quả. Những cuộc đàm phán quốc tế không đạt được bước tiến quan trọng bởi vị thế quyền lực của các quốc gia đặt lợi ích riêng trên thiện ích chung toàn cầu. Những quốc gia đang gánh chịu hậu quả của những điều chúng ta tìm cách che giấu sẽ không quên sự thất bại về lương tâm và trách nhiệm này. Thậm chí ngay khi Thông điệp này sắp ban hành, cuộc tranh luận vẫn đang gay gắt. Là các tín hữu, chúng ta không thể không xin Thiên Chúa ban một kết quả tích cực cho các cuộc thảo luận hiện tại, để các thế hệ tương lai sẽ không phải chịu đựng những hậu quả do sự trì hoãn thiếu khôn ngoan của chúng ta.
170. Một số chiến lược nhằm giảm khí thải ô nhiễm kêu gọi việc quốc tế hoá các khoản chi phí môi trường. Việc này có nguy cơ áp đặt lên các nước có ít nguồn tài nguyên những cam kết nặng nề đối với việc làm giảm khí thải so với các nước công nghiệp hoá hơn. Áp đặt biện pháp như vậy sẽ trừng phạt các quốc gia đang cần phát triển nhất. Một sự bất công hơn nữa đang được thực hiện dưới chiêu bài bảo vệ môi trường. Cuối cùng thì người nghèo lại phải trả giá.[127]
Hơn nữa, vì tác động của biến đổi khí hậu sẽ được cảm nhận sau này, cho nên ngay cả các biện pháp nghiêm ngặt nhất hiện nay đang được áp dụng thì một số quốc gia khan hiếm các nguồn tài nguyên vẫn cần được trợ giúp để thích nghi với những tác động đã tạo ra và ảnh hưởng đến nền kinh tế của họ. Trong bối cảnh này, cần có trách nhiệm chung và riêng, như Hội Đồng Giám Mục Bolivia đã nói: “các quốc gia kiếm lợi nhiều từ công nghiệp hoá với lượng lớn khí thải nhà kính, phải có trách nhiệm hơn trong việc giải quyết các vấn đề đã gây ra”.
Bài này đã được xem 1030 lần!