171. Chiến lược mua bán “tín dụng cacbon” có thể dẫn đến một hình thức đầu cơ mới chẳng giúp gì được cho việc làm giảm các khí thải gây ô nhiễm toàn thế giới. Hệ thống này dường như mang lại một giải pháp nhanh chóng và dễ dàng dưới dáng vẻ cam kết thực sự vì môi trường, nhưng không hề tạo nên một sự thay đổi triệt để nào. Nó có vẻ như một thủ đoạn để duy trì sự tiêu thụ thái quá ở một số quốc gia và khu vực.
172. Đối với các nước nghèo, ưu tiên phải là loại bỏ tình trạng cực nghèo và cổ võ sự phát triển xã hội của dân tộc. Đồng thời, những quốc gia này cần nhận biết mức độ nguy hại của việc tiêu thụ trong một số bộ phận dân cư đặc quyền và đấu tranh chống tham nhũng cách hiệu quả hơn. Họ cũng buộc phải phát triển những hình thức sản xuất năng lượng ít gây ô nhiễm, nhưng họ cần sự trợ giúp của những quốc gia đã trải qua sự phát triển lớn lao bằng cái giá của tình trạng ô nhiễm liên tục trên hành tinh này. Việc tận dụng nguồn năng lượng mặt trời dồi dào đòi hỏi thiết lập những cơ chế và những khoản trợ cấp giúp các nước đang phát triển chuyển đổi công nghệ, trợ giúp kĩ thuật và nguồn tài chính, nhưng phải tôn trọng hoàn cảnh cụ thể của họ, vì “sự tương hợp của [hạ tầng cơ sở] với bối cảnh thiết kế không phải luôn được đánh giá cách đầy đủ”.[128] Các khoản chi phí này có thể thấp so với những mối nguy về biến đổi khí hậu. Trong bất kì biến cố nào, những khoản chi phí này nhất định là những quyết định mang tính đạo đức, có căn nguyên trong sự liên đới của tất cả các dân tộc.
173. Cần phải thi hành những thoả thuận quốc tế khẩn cấp, vì các nhà cầm quyền địa phương không đủ năng lực để can thiệp hiệu quả. Các mối tương quan giữa các nhà nước phải tôn trọng chủ quyền của nhau, nhưng cũng phải đặt ra những phương thế hỗ tương thống nhất để ngăn ngừa những thảm hoạ khu vực có ảnh hưởng đến hết mọi người. Cần có khung pháp lý toàn cầu để áp đặt những điều buộc và ngăn chặn những hành động không thể chấp nhận được, chẳng hạn các công ty hoặc các cường quốc xả chất thải bẩn hay những ngành công nghiệp gây ô nhiễm ngoài khơi của các quốc gia khác.
174. Cũng phải cảnh báo về hệ thống quản lý các đại dương. Cho dù đã có những thoả thuận quốc tế hoặc địa phương, nhưng do sự phân tán và thiếu bộ máy kiểm soát nghiêm khắc để đưa ra những quy định và phê chuẩn, cuối cùng làm mất đi mọi cố gắng. Vấn đề gia tăng rác thải vào trong biển và việc bảo vệ các vùng biển vượt quá biên giới quốc tế, đã đưa ra một thách đố đặc biệt. Cuối cùng, chúng ta cần đạt tới một sự thỏa thuận về quy định trật tự và cơ cấu chính trị cho toàn bộ điều được gọi là “công ích toàn cầu” [globalen Gemeinwohls – biens communs globaux]
175. Cùng một não trạng cản trở những quyết định dứt khoát nhằm đảo ngược khuynh hướng nóng dần toàn cầu cũng đang cản trở mục tiêu xóa nghèo. Cần có một cách tiếp cận tổng thể trách nhiệm hơn để giải quyết cả hai vấn đề: giảm ô nhiễm và phát triển các nước và các khu vực nghèo hơn. Thế kỷ 21, trong khi duy trì các hệ thống điều hành được thừa hưởng từ quá khứ, lại đang chứng kiến một sự suy yếu sức mạnh của các nhà nước quốc gia, chủ yếu là vì các thành phần kinh tế và tài chính xuyên quốc gia có xu hướng thắng thế cả chính trị. Trước tình hình này, thật chính đáng để phát triển những tổ chức quốc tế mạnh mẽ và hiệu quả hơn, với những cơ quan được bổ nhiệm cách khách quan thông qua thoả thuận giữa các chính phủ quốc gia và có quyền xử phạt. Như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã xác định trong sự tiếp nối với Giáo huấn xã hội của Giáo Hội: “Để quản lý nền kinh tế toàn cầu; để làm sống lại các nền kinh tế đã bị quật ngã bởi khủng hoảng; để tránh sự suy thoái của cuộc khủng hoảng hiện tại và hậu quả là tình trạng mất cân đối lớn; để giải trừ quân bị toàn diện và đúng lúc, để có an toàn thực phẩm và hoà bình; để đảm bảo việc bảo vệ môi trường và điều tiết việc di dân, nhất thiết phải có một cơ quan chính trị thế giới thực sự, như vị tiền nhiệm của tôi là Chân Phước Gioan XXIII đã nêu ra cách đây vài năm.”[129] Chính sách ngoại giao cũng phải mang lấy một tầm quan trọng mới để thúc đẩy những chiến lược quốc tế nhằm dự đoán trước được các vấn đề nghiêm trọng đang ảnh hưởng đến tất cả chúng ta.
II. ĐỐI THOẠI VỚI NHỮNG CHÍNH SÁCH MỚI CỦA QUỐC GIA VÀ ĐỊA PHƯƠNG
176. Không chỉ có tình trạng kẻ thắng người thua giữa các quốc gia, nó cũng có ngay trong chính các nước nghèo nữa. Từ đó cần phải xác định các trách nhiệm khác nhau. Vấn đề môi trường và phát triển kinh tế không chỉ được tiếp cận từ quan điểm khác biệt giữa các quốc gia; nhưng chúng còn yêu cầu chú ý đến các chính sách quốc gia và địa phương.
177. Trước nguy cơ con người sử dụng vô trách nhiệm các năng lực của mình, các nhà nước không thể bỏ qua trách nhiệm lên kế hoạch, điều phối, giám sát và xử phạt bên trong lãnh thổ của mình. Làm thế nào một xã hội có thể lên kế hoạch và bảo vệ tương lai của xã hội ấy giữa những đổi mới công nghệ liên tục? Một nguồn giám sát và điều phối có thẩm quyền là pháp luật, thiết lập những quy tắc ứng xử có thể chấp nhận được dưới ánh sáng của thiện ích chung. Một xã hội lành mạnh, trưởng thành và có chủ quyền phải đặt ra những giới hạn có liên quan đến dự báo, an ninh, quy định thích hợp, giám sát đúng lúc, loại trừ nạn tham nhũng, đáp ứng hữu hiệu trước những tác dụng phụ không mong muốn của các quy trình sản xuất, và can thiệp thích hợp khi đối diện với các rủi ro tiềm ẩn hoặc bất ổn. Đã có sự phát triển hệ thống pháp lý liên quan đến việc giảm tác động ô nhiễm của các hoạt động kinh doanh; cấu trúc chính trị và thể chế không chỉ tồn tại để tránh việc thi hành tệ hại, nhưng phải cổ võ cách thực hiện tốt nhất, kích thích sự sáng tạo trong việc tìm kiếm các giải pháp mới, tạo điều kiện cho sáng kiến của cá nhân và tập thể.
178. Một chính sách quan tâm đến kết quả trước mắt được thành phần tiêu thụ ủng hộ chỉ hướng đến sự tăng trưởng ngắn hạn. Đối phó với quyền lợi trong việc bầu cử, các chính phủ chần chừ không muốn gây phẫn nộ công chúng bằng những biện pháp ảnh hưởng đến mức độ tiêu thụ hoặc gây nguy hiểm cho việc đầu tư nước ngoài. Những chính sách thiển cận làm trì hoãn chương trình nghị sự có tầm nhìn xa về môi trường trong chương trình tổng thể của các chính quyền. Chúng ta quên mất rằng “thời gian quan trọng hơn không gian”,[130] chúng ta trở nên hữu hiệu hơn khi tạo ra những tiến trình chứ không phải là nắm giữ các vị thế quyền lực. Khả năng quản lý nhà nước thật sự được thể hiện khi vẫn duy trì được những nguyên tắc rộng lớn và tư duy cho thiện ích chung dài hạn trong những thời kỳ gian khó. Các thế lực chính trị không dễ thực thi nghĩa vụ này trong công cuộc xây dựng quốc gia.
179. Ở một số nơi đang phát triển các hợp tác xã để khai thác nguồn năng lượng tái tạo đảm bảo việc tự túc của địa phương và thậm chí có thể bán phần thặng dư. Một ví dụ đơn giản cho thấy rằng trong khi trật tự thế giới hiện tại không đảm nhận trách nhiệm của mình, các cá nhân và nhóm địa phương lại có thể tạo ra sự khác biệt. Họ có thể khơi dậy ý thức trách nhiệm hơn, cảm thức mạnh mẽ về cộng đồng, sự sẵn sàng bảo vệ người khác, tinh thần sáng tạo và tình yêu sâu thẳm dành cho đất đai. Họ cũng quan tâm đến những gì họ sẽ để lại cho con cái cháu chắt. Những giá trị này được bén rễ sâu sắc ở nơi những dân tộc bản địa. Đôi khi việc thi hành luật pháp thôi thì không đủ vì nạn tham nhũng, áp lực công chúng đòi phải có một hành động chính trị mang tính quyết định. Xã hội, thông qua những tổ chức phi chính phủ và các nhóm trung gian, phải gây áp lực lên các chính quyền để phát triển những quy định, thủ tục và kiểm soát nghiêm ngặt hơn. Nếu các công dân không kiểm soát quyền lực chính trị – cấp quốc gia, khu vực và thành thị – thì sẽ không thể kiểm soát được sự nguy hại đến môi trường. Luật pháp địa phương cũng có thể hiệu quả hơn, nếu tồn tại thoả thuận giữa các cộng đồng lân cận để hỗ trợ các chính sách môi trường chung.
180. Không có những công thức kiểu đồng phục, vì mỗi quốc gia hay khu vực có những vấn đề và giới hạn riêng của mình. Cũng đúng là chủ nghĩa hiện thực chính trị có thể kêu gọi những biện pháp và công nghệ mang tính chuyển đổi, miễn là chúng đi kèm với thiết kế và chấp nhận cam kết ràng buộc. Đồng thời, ở cấp độ quốc gia và địa phương, vẫn còn nhiều việc cần thực hiện, như xúc tiến những cách bảo tồn nguồn năng lượng, trong đó thúc đẩy hình thức sản xuất công nghiệp tối ưu hóa nguồn năng lượng và giảm nguồn nguyên liệu thô, loại bỏ khỏi thị trường các sản phẩm kém hiệu quả về năng lượng hoặc gây ô nhiễm, cải tiến hệ thống giao thông, khích lệ xây dựng và tu sửa lại những toà nhà nhằm giảm năng lượng tiêu thụ và mức độ ô nhiễm. Hoạt động chính trị ở cấp độ địa phương cũng định hướng điều chỉnh việc tiêu dùng, phát triển nền kinh tế về rác thải phân hủy và tái chế, bảo vệ các chủng loại nhất định và lập kế hoạch cho một nền nông nghiệp đa dạng và luân canh mùa màng. Nông nghiệp ở những khu vực nghèo có thể được cải thiện thông qua sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, tổ chức tốt thị trường địa phương và quốc gia, hệ thống thuỷ lợi và phát triển các kĩ thuật nông nghiệp bền vững. Những hình thức hợp tác và tổ chức cộng đồng mới có thể được khích lệ để bảo vệ lợi ích của các nhà sản xuất nhỏ và bảo tồn hệ sinh thái địa phương khỏi sự huỷ diệt. Quả thật, còn nhiều điều cần phải thực hiện.
181. Sự tiếp nối là thiết yếu, vì không thể thay đổi các chính sách biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường mỗi khi có sự thay đổi chính quyền. Các kết quả cần nhiều thời gian và đòi hỏi những khoản chi phí trực tiếp, nhưng không thể thấy được hiệu quả hữu hình trong một nhiệm kỳ của bất cứ chính quyền nào. Đó là lý do vì sao các nhà cầm quyền chính trị luôn ngần ngại can thiệp nếu không có áp lực công chúng và các tổ chức dân sự, hoặc chỉ khi nào có nhu cầu khẩn thiết phải giải quyết. Đảm nhận trách nhiệm và cái giá phải trả, các nhà chính trị không thể tránh khỏi xung đột với não trạng lợi ích và kết quả ngắn hạn đang thống lĩnh các nền kinh tế và chính trị ngày nay. Nhưng nếu họ can đảm, họ sẽ làm chứng cho phẩm giá Thiên Chúa ban tặng và để lại cho hậu thế một chứng tá về trách nhiệm xả kỷ. Một chính sách đúng đắn là điều cần thiết, nó có khả năng cải cách các thể chế, điều phối, cổ võ những cách thực hành tốt nhất, vượt thắng áp lực phi lý và tính ù lì quan liêu. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm rằng ngay cả những cơ chế tốt nhất cũng có thể bị sụp đổ khi không có những mục tiêu và những giá trị xứng đáng, hoặc không có một chủ nghĩa nhân bản đích thực và sâu sắc làm nền tảng của một xã hội cao quý và quảng đại.
III. ĐỐI THOẠI VÀ MINH BẠCH TRONG QUYẾT ĐỊNH
182. Việc đánh giá tác động môi trường của các doanh nghiệp và dự án đòi hỏi những tiến trình chính trị minh bạch có sự tự do trao đổi quan điểm. Mặt khác, các hình thức tham nhũng nhằm trao đổi lợi ích vốn che giấu tác động thực sự đến môi trường của một dự án thường tạo ra những thoả thuận giả dối, không thông tin và tạo điều kiện để tranh luận đầy đủ.
183. Không phải sau khi đã hoạch định đường hướng kinh doanh hay đề xuất một chính sách, kế hoạch hay chương trình cụ thể mới đưa ra việc đánh giá tác động đến môi trường. Nó phải là một phần của tiến trình ngay từ ban đầu, và được thực hiện liên ngành, minh bạch và độc lập khỏi mọi áp lực kinh tế hay chính trị. Việc đánh giá này cần phải gắn liền với nghiên cứu về các điều kiện làm việc và tác động trên sức khoẻ thể lý và tinh thần của người dân, trên nền kinh tế địa phương và an toàn công cộng. Do đó, kết quả kinh tế có thể được dự báo thực tế hơn, tính toán đến các tình huống tiềm năng và nhu cầu đầu tư xa hơn để điều chỉnh những tác động không mong muốn có thể xảy ra. Phải có sự thoả thuận giữa các bên liên quan để có thể đưa ra nhiều cách tiếp cận, giải pháp và khả năng khác nhau.
Dân cư địa phương phải có chỗ đặc biệt trong bàn thảo luận; họ bận tâm về tương lai của riêng họ và con em của họ, và có thể xem xét các mục tiêu vượt ra khỏi lợi ích kinh tế tức thời. Chúng ta cần dừng lại để suy nghĩ về “những can thiệp” cứu lấy môi trường, trong đó ủng hộ các chính sách được phát triển và tranh luận bởi tất cả các bên liên quan. Việc tham gia của cư dân địa phương đưa tới thông tin đầy đủ về những dự án như thế, các rủi ro và cơ may của những dự án này; nó bao gồm cả giai đoạn lấy quyết định ban đầu và các hoạt động sau đó cùng với sự giám sát liên tục. Cần sự chân thành và sự thật trong các cuộc thảo luận khoa học và chính trị, không để bị giới hạn vào những vấn đề mà pháp luật cho phép hay không.
184. Trong khi đối diện với những rủi ro đối với môi trường là điều có thể ảnh hưởng đến thiện ích chung bây giờ và trong tương lai, các quyết định cần được thực hiện “dựa trên so sánh những rủi ro và lợi ích dự báo được trong những giải pháp thay thế khác”.[131] Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp dự án sử dụng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí thải hay chất thải ở mức độ cao, tăng rác thải sản xuất, hay những thay đổi quan trọng về phong cảnh, nơi cư trú của các chủng loại đang được bảo vệ hay những không gian chung. Một số dự án, nếu không nghiên cứu đầy đủ, có thể ảnh hưởng sâu sắc đến phẩm chất cuộc sống của một khu vực do nhiều yếu tố khác nhau như ô nhiễm tiếng ồn không mong đợi, giảm chân trời tầm nhìn, mất các giá trị văn hoá, hay ảnh hưởng của năng lượng hạt nhân. Nền văn hoá tiêu thụ, vốn ưu tiên cho khoản thu ngắn hạn và tư lợi, có thể thúc đẩy các nhà cầm quyền phê chuẩn hoặc bưng bít thông tin.
185. Trong bất kì cuộc thảo luận nào về đề xuất kinh doanh, cần phải đặt ra hàng loạt câu hỏi để biện phân xem liệu dự án có góp phần tạo nên sự phát triển toàn diện hay không. Nó sẽ đạt được gì? Tại sao? Ở đâu? Khi nào? Bằng cách nào? Cho ai? Đâu là những rủi ro? Đâu là các khoản chi phí? Ai sẽ trả những khoản chi phí đó và bằng cách nào? Trong sự biện phân này, một số câu hỏi phải ưu tiên hơn. Chẳng hạn, chúng ta biết rằng nước là một nguồn tài nguyên hiếm và không thể thiếu, là quyền căn bản tạo điều kiện để thi hành những quyền khác của con người. Sự thật này không thể nghi ngờ và vượt qua bất kì một đánh giá nào về tác động môi trường trên khu vực.
186. Tuyên Ngôn Rio năm 1992 khẳng định: “nơi nào có nguy cơ thiệt hại nghiêm trọng hoặc không thể cứu vãn, người ta không được lấy cớ thiếu bằng chứng khoa học chắc chắn để trì hoãn những biện pháp hiệu quả”[132] nhằm ngăn chặn suy thoái môi trường. Nguyên tắc phòng ngừa này cho phép bảo vệ những kẻ yếu, không đủ khả năng bảo vệ lợi ích của họ và cung cấp chứng cứ vững vàng. Nếu thông tin khách quan dự đoán có sự nguy hại không thể cứu vãn được thì cần phải dừng hoặc điều chỉnh dự án, ngay cả khi thiếu bằng chứng xác đáng. Ở đây gánh nặng của chứng cứ được đảo ngược một cách hiệu quả, vì trong những trường hợp như thế phải đưa ra những luận chứng khách quan và kết luận rằng hoạt động được đề xuất sẽ không tạo ra nguy hiểm nghiêm trọng cho môi trường hay cho những người đang sống trong môi trường ấy.
187. Điều này không có ý chống lại sự đổi mới công nghệ cho phép cải thiện phẩm chất đời sống, nhưng xác định lợi nhuận không thể là tiêu chí duy nhất cần xem xét, và khi có thông tin mới quan trọng xuất hiện, phải đánh giá lại dự án với sự tham gia của tất cả các bên liên quan. Kết quả thảo luận có thể là quyết định ngừng xúc tiến dự án, điều chỉnh hay xem xét giải pháp thay thế.
Bài này đã được xem 1036 lần!