THÔNG ĐIỆP VỀ VIỆC CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG CỦA CHÚNG TA – LAUDATO SI’

188. Có những vấn đề môi trường nhất định mà không dễ đạt được sự đồng thuận ở diện rộng. Một lần nữa tôi nhắc lại rằng Hội Thánh không yêu cầu xác định những vấn đề khoa học hay thay thế các chính sách, nhưng tôi quan tâm khích lệ một cuộc thảo luận trung thực và rộng mở, để nhu cầu đặc biệt hay ý thức hệ cụ thể sẽ không ảnh hưởng bất lợi đến thiện ích chung.

IV. CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ TRONG CUỘC ĐỐI THOẠI VỚI SỰ HOÀN THIỆN CON NGƯỜI 

189. Các chính sách không được lệ thuộc vào kinh tế, cũng như kinh tế không lệ thuộc vào mệnh lệnh của thứ mô hình kĩ trị chạy theo hiệu quả. Ngày nay, với quan điểm về thiện ích chung, cần gấp rút phải có các chính sách và nền kinh tế thích hợp để bước vào cuộc đối thoại thẳng thắn về việc phục vụ sự sống, đặc biệt là sự sống con người. Cứu các ngân hàng bằng mọi giá, làm cho công chúng phải trả giá, buông bỏ cam kết rà soát lại và cải tổ toàn bộ hệ thống, tất cả những điều đó chỉ tái khẳng định sức mạnh tuyệt đối của hệ thống tài chính, một sức mạnh không có tương lai hoặc sẽ chỉ làm gia tăng các cuộc khủng hoảng mới sau một tiến trình khôi phục chậm chạp và tốn kém. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 mang lại một cơ hội để phát triển một nền kinh tế mới quan tâm hơn đến các nguyên tắc đạo đức, những quy định mới về đầu cơ tài chính và sự thịnh vượng ảo, nhưng lại không suy nghĩ về những tiêu chí lạc hậu đang tiếp tục chi phối thế giới. Sản xuất không phải lúc nào cũng hợp lý và thường gắn liền với những biến thiên kinh tế quy định cho sản phẩm một giá trị không tương ứng với giá trị thật sự. Điều này dẫn đến sản xuất một số mặt hàng quá nhiều, với những tác động không cần thiết lên môi trường và với những kết quả tiêu cực cho nền kinh tế khu vực.[133] Bong bóng tài chính cũng có xu hướng trở thành bong bóng sản xuất. Không thể giải quyết triệt để vấn đề của nền kinh tế thực, tuy nhiên nền kinh tế thực sẽ tạo sự đa dạng và tiến bộ trong khả năng sản xuất, giúp các công ty vận hành tốt, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát triển và tạo ra công ăn việc làm.

190. Trong bối cảnh này, chúng ta phải luôn nhớ rằng “việc bảo vệ môi trường không thể được đảm bảo trên nền tảng của những tính toán tài chính về các khoản chi phí và lợi nhuận. Môi trường là một trong những tài sản mà các thế lực thị trường không thể bảo vệ hoặc xúc tiến cách đầy đủ”.[134] Một lần nữa, chúng ta loại bỏ khái niệm có tính ma thuật về thị trường có xu hướng nghĩ rằng các vấn đề được giải quyết bằng cách gia tăng lợi nhuận của các công ty hay cá nhân. Có thực tế không khi hy vọng rằng những người đang bị ám ảnh tối đa hoá lợi nhuận sẽ dừng lại để suy nghĩ về mối nguy hại đến môi trường mà họ để lại cho thế hệ tương lai? Nơi nào chỉ tính đến lợi nhuận, nơi đó sẽ không lưu tâm đến nhịp điệu của thiên nhiên, những giai đoạn hư hoại và tái tạo, hoặc tính phức tạp của các hệ sinh thái bị thay đổi đáng kể do sự can thiệp của con người. Hơn nữa, khi nói đến đa dạng sinh học, đa số mọi người đều xem đó như một nguồn kinh tế có sẵn cần bảo tồn, chứ không suy nghĩ nghiêm túc về giá trị đích thực của mọi sự, tầm quan trọng của nó đối với con người và các nền văn hoá, mối quan tâm và nhu cầu của người nghèo.

191. Bất cứ khi nào vấn đề được nêu lên, một số người phản ứng bằng cách tố cáo người khác đã ngăn chặn sự tiến bộ và phát triển con người cách phi lý. Chúng ta cần xác tín hơn rằng việc giảm nhịp độ sản xuất và tiêu thụ đôi khi có thể dẫn đến một hình thức tiến bộ và phát triển khác. Những nỗ lực cổ võ việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là một sự lãng phí tiền của, nhưng là một sự đầu tư có thể mang lại những lợi ích kinh tế trung hạn khác. Nếu nhìn vào bức tranh toàn cảnh, chúng ta có thể thấy những hình thức sản xuất đa dạng và sáng tạo ít ảnh hưởng đến môi trường có thể rất có lợi. Vấn đề là mở ra những khả năng khác nhau, không ngăn chặn sự sáng tạo của con người và những lý tưởng tiến bộ, nhưng định hướng nguồn năng lượng ấy đi theo những kênh mới.

192. Ví dụ, một cách thức phát triển sản xuất sáng tạo và định hướng tốt hơn có thể chỉnh sửa lại sự chênh lệch hiện tại giữa việc đầu tư quá nhiều về công nghệ tiêu dùng và quá ít vào việc giải quyết các vấn đề khẩn cấp của gia đình nhân loại. Nó có thể tạo ra những hình thức thông minh và ích lợi về việc tái sử dụng, phục hồi và tái chế, và nó cũng có thể cải thiện tính hiệu quả về năng lượng của các thành phố. Sự đa dạng sản xuất cung cấp khả năng đầy đủ cho tài khéo của con người để sáng tạo và đổi mới, đồng thời vẫn bảo vệ môi trường và tạo ra nhiều nguồn việc làm hơn. Sự sáng tạo như thế diễn tả phẩm chất cao quý nhất của con người, vì chúng ta biết dùng trí thông minh, lòng can đảm và tinh thần trách nhiệm để cổ võ sự phát triển bền vững và công bằng ngay trong bối cảnh của một khái niệm rộng lớn về chất lượng cuộc sống. Ngược lại, tìm cách cướp bóc thiên nhiên để có những món hàng tiêu dùng mới và lợi nhuận nhanh chóng được xem là hành động nông cạn, kém giá trị và sáng tạo của con người.

193. Nếu như trong một số trường hợp, sự phát triển bền vững có liên hệ đến những hình thức tăng trưởng mới, thì trong một số trường hợp khác lại có sự gia tăng lòng tham và vô trách nhiệm diễn ra nhiều thập niên qua. Chúng ta cần nghĩ đến sự tăng trưởng có giới hạn hợp lý và thậm chí cần phải quay lại trước khi quá muộn. Thật bất ổn biết bao khi có những người liên tục tiêu thụ và phá hủy, trong khi những người khác lại không sống phù hợp với nhân phẩm. Đó là lý do vì sao đã đến lúc phải chấp nhận một sự phát triển chậm lại ở một số nơi trên thế giới, để cung cấp nguồn lực cho những nơi khác được tăng trưởng lành mạnh. Đức Bênêđictô XVI nói rằng “những xã hội tiến bộ về công nghệ phải chuẩn bị để khích lệ lối sống điều độ hơn, trong khi giảm tiêu thụ năng lượng và cải thiện hiệu quả của nó”.[135]

194. Vì những mô hình tiến bộ mới xuất hiện, cần phải thay đổi “các mô hình phát triển toàn cầu”;[136] trong đó bao hàm một suy tư có trách nhiệm về “ý nghĩa của nền kinh tế và mục tiêu của nó, điều chỉnh những rối loạn chức năng và biến dạng của nó”.[137] Cân bằng, trong trung hạn, giữa việc bảo vệ thiên nhiên với thu lợi tài chính, hoặc giữa việc bảo tồn môi trường với sự tiến bộ thì không đủ. Những biện pháp nửa vời chỉ làm trì hoãn thảm hoạ hiển nhiên.

Vấn đề là định nghĩa lại khái niệm về sự tiến bộ. Một sự phát triển công nghệ và kinh tế không để lại cho tương lai một thế giới tốt đẹp và chất lượng sống toàn diện hơn thì không được coi là sự tiến bộ. Phẩm chất cuộc sống thực tế của người dân nhiều lần bị suy giảm – suy thoái môi trường, chất lượng thực phẩm kém hoặc cạn kiệt nguồn tài nguyên – ngay trong sự tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh đó, đề tài phát triển bền vững thường không được chú ý, hoặc đưa ra những lời biện minh, ngôn ngữ và giá trị của sinh thái học bị nhấn chìm trong logic của tài chính và kĩ trị, trách nhiệm môi trường và xã hội của các doanh nghiệp thường được giảm xuống thành một loạt các biện pháp tiếp thị và gia tăng hình ảnh. 

195. Nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận, có khuynh hướng tách ra khỏi những suy xét khác, phản ánh một khái niệm sai lầm về kinh tế. Bao lâu chỉ lo gia tăng sản xuất, thì bấy lâu người ta không quan tâm đến nguồn tài nguyên tương lai hay sự lành mạnh của môi trường; bao lâu người ta chỉ lo khai thác rừng để gia tăng sản xuất, thì bấy lâu họ chẳng quan tâm gì đến những mất mát đi kèm với tình trạng sa mạc hoá đất đai, gây nguy hại cho sự đa dạng sinh học hoặc gia tăng tình trạng ô nhiễm. Tắt một lời, các doanh nghiệp kiếm lợi bằng việc tính toán và chỉ trả một phần rất ít các khoản chi phí liên quan. Chỉ khi nào “các khoản chí phí kinh tế và xã hội cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên chung được nhìn nhận minh bạch và những người hưởng dùng phải gánh lấy trách nhiệm đầy đủ, chứ không phải người khác hay các thế hệ tương lai phải chịu”[138] thì những hành động ấy mới được coi là đạo đức. Vẫn có một lối lý luận mang tính công cụ, chỉ phân tích trạng thái tĩnh thuần tuý của các thực tại nhằm phục vụ cho nhu cầu hiện tại, bất luận là các nguồn tài nguyên được phân bổ bởi thị trường hay bởi kế hoạch của nhà nước.

196. Các quan điểm chính trị thì sao? Chúng ta hãy nhớ nguyên tắc bổ trợ là nguyên tắc đảm bảo sự tự do để phát triển các khả năng trong mọi cấp độ của xã hội, trong khi cũng đòi hỏi ý thức trách nhiệm lớn lao về thiện ích chung của những người đang nắm giữ quyền lực. Ngày nay, xảy ra trường hợp là một số thành phần kinh tế có quyền lực hơn nhà nước. Không thể biện minh cho một nền kinh tế mà không có chính trị, vì như thế sẽ không thể giải quyết các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng hiện tại. Não trạng thiếu quan tâm thực sự đến môi trường cũng là não trạng thiếu quan tâm đón nhận hết mọi thành viên mỏng giòn nhất của xã hội, vì “mô hình hiện tại, nhấn mạnh trên thành công và tự lực, dường như không thích đầu tư để giúp những người chậm chạp, yếu đuối hay kém tài năng tìm kiếm những cơ hội trong cuộc sống”.[139]

197. Điều cần thiết là nền chính trị có tầm nhìn xa, có cách tiếp cận mới mẻ, toàn diện và liên ngành để giải quyết các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng. Nhiều lần nền chính trị phải chịu trách nhiệm và mất uy tín vì tham nhũng và thiếu chính sách công có ý nghĩa. Nếu trong một khu vực cụ thể mà nhà nước không thực thi các trách nhiệm của mình, thì một số nhóm kinh doanh có thể tiến bước dưới chiêu bài của những người thụ hưởng để nắm quyền lực thực sự, và tự coi họ được miễn trừ một số điều luật nhất định, đến mức dung túng các hình thức tội phạm có tổ chức, buôn bán người, buôn bán ma túy và bạo lực, tất cả đều rất khó tiêu diệt. Nếu nền chính trị không có khả năng phá vỡ một kiểu lý luận sai lạc như thế, và vẫn bị mắc kẹt trong những cuộc thảo luận vô nghĩa, thì chúng ta sẽ tiếp tục né tránh đối diện với những vấn đề chính của nhân loại. Một chiến lược thay đổi thực sự mời gọi chúng ta suy nghĩ lại về toàn bộ tiến trình của nó, một vài suy xét hời hợt về sinh thái thôi thì không đủ, cần phải đặt vấn đề về luận lý cơ bản của nền văn hoá thời nay. Một nền chính trị lành mạnh cần phải biết đảm nhận thách đố này.

198. Chính trị và kinh tế có xu hướng đổ lỗi cho nhau khi đối diện với tình trạng nghèo nàn và suy thoái môi trường. Hy vọng rằng mỗi bên có thể nhận ra được những sai lầm của mình và tìm kiếm hình thức tương tác hướng đến thiện ích chung. Trong khi một số người chỉ bận tâm tới lợi ích tài chính, còn một số khác lại lo duy trì hay gia tăng quyền lực, chắc chắn điều để lại sẽ là những mâu thuẫn và thoả thuận giả dối, trong đó cả hai bên đều không quan tâm đến việc chăm sóc môi trường và bảo vệ những người yếu đuối. Ở đây cũng thế, chúng ta thấy nguyên tắc “hiệp nhất lướt thắng xung đột” rất đúng.[140]

V. CÁC TÔN GIÁO ĐỐI THOẠI VỚI KHOA HỌC 

199. Người ta không thể cho rằng khoa học thực nghiệm giải thích đầy đủ về sự sống, sự tương tác của mọi loài thụ tạo và toàn bộ thực tại. Điều này vượt quá giới hạn của chính phương pháp khoa học. Nếu chỉ lý luận trong ranh giới của khoa học, sẽ không có chỗ cho sự nhạy bén thẩm mĩ, thi ca, hay thậm chí khả năng của lý trí để nắm bắt ý nghĩa và mục đích tối hậu của mọi sự.[141] Tôi muốn nhắc lại rằng “các trường phái tôn giáo cổ điển đều có thể đem lại ý nghĩa trong mọi thời đại; có sức mạnh bền bỉ để mở ra những chân trời mới… Có hợp lý và sáng suốt không khi loại bỏ một số tác phẩm chỉ vì chúng sinh ra trong bối cảnh niềm tin tôn giáo?”[142] Rất đơn giản để thấy rằng các nguyên tắc đạo đức tự thể hiện bản chất ý nghĩa trong sự trừu tượng, tách rời khỏi bất kì bối cảnh nào; cũng không vì những nguyên tắc này được diễn đạt theo ngôn ngữ tôn giáo mà giảm bớt đi giá trị của chúng trong cuộc thảo luận chung. Lý trí có thể nhận thức các nguyên tắc đạo đức dù chúng tái xuất hiện trong nhiều dáng vẻ khác nhau và được diễn tả bằng nhiều ngôn ngữ đa dạng, ngay cả ngôn ngữ tôn giáo.

200. Bất kì một giải pháp kĩ thuật nào mà khoa học tuyên bố mang lại sẽ trở nên bất lực trong việc giải quyết các vấn đề nghiêm trọng của thế giới nếu nhân loại mất định hướng, nếu chúng ta mất động lực để sống hài hoà, hy sinh và đối xử tốt với người khác. Các tín hữu phải luôn cảm thấy bị thách đố sống xứng hợp với niềm tin của họ và không làm gì trái ngược với niềm tin ấy. Họ cần được khích lệ để mở lòng ra hơn nữa với ân sủng của Thiên Chúa và thường xuyên kín múc tình yêu, công lý và hòa bình từ những xác tín sâu xa nhất của họ. Nếu đôi lúc vì thiếu hiểu biết, chúng ta biện minh cho việc đối xử tệ bạc với thiên nhiên, tàn nhẫn với công trình tạo dựng, tham gia vào chiến tranh, bất công và bạo lực, thì với tư cách là các tín hữu, chúng ta phải nhìn nhận mình không còn trung tín với các kho tàng của sự khôn ngoan mà chúng ta được mời gọi để trân trọng và bảo tồn. Giới hạn văn hoá trong những kỷ nguyên khác nhau thường ảnh hưởng lên nhận thức về các kho tàng đạo đức và tinh thần này, nhưng bằng cách trở về nguồn, các tôn giáo sẽ được trang bị tốt hơn để đáp ứng nhu cầu của thời đại hôm nay.

201. Đa số những người đang sống trên hành tinh của chúng ta đều tuyên nhận là những người có niềm tin. Điều này thúc đẩy các tôn giáo đối thoại với nhau hướng tới việc chăm sóc thiên nhiên, bảo vệ người nghèo và xây dựng mạng lưới của sự tôn trọng và tình huynh đệ. Cũng vậy, việc đối thoại giữa các ngành khoa học khác nhau là rất cần thiết, vì mỗi ngành có thể có khuynh hướng đóng lại trong giới hạn ngôn ngữ của nó, việc chuyên môn hoá lại dẫn đến một sự cô lập nhất định và tuyệt đối hoá về chính lãnh vực tri thức của mỗi ngành. Điều này ngăn cản chúng ta đối diện với những vấn đề môi trường cách hữu hiệu. Cần có một cuộc đối thoại cởi mở và tôn trọng giữa các phong trào sinh thái khác nhau, trong đó có gặp gỡ giữa những mâu thuẫn ý thức hệ. Mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng sinh thái đòi buộc tất cả chúng ta phải tìm kiếm thiện ích chung, dấn bước trên con đường đối thoại đòi hỏi sự nhẫn nại, kỷ luật và lòng quảng đại, luôn luôn ghi nhớ rằng “thực tại lớn hơn ý tưởng”.[143]

CHƯƠNG SÁU
GIÁO DỤC VÀ LINH ĐẠO SINH THÁI

202. Có rất nhiều thứ cần thay đổi, nhưng trên hết vẫn là con người chúng ta phải thay đổi. Chúng ta thiếu ý thức về cội nguồn chung, sự thuộc về hỗ tương và tương lai chia sẻ với mọi người. Ý thức cơ bản này có thể thúc đẩy sự phát triển những xác tín, thái độ và lối sống mới. Thách đố lớn về văn hóa, thiêng liêng và giáo dục vẫn đang ở phía trước và đòi hỏi chúng ta một con đường canh tân dài lâu.

I. HƯỚNG ĐẾN MỘT LỐI SỐNG MỚI 

203. Vì thị trường có xu hướng cổ võ tiêu thụ cực độ để bán sản phẩm, nên người ta dễ bị cuốn vào cơn lốc mua sắm và tiêu xài không cần thiết. Kiểu tiêu thụ không cưỡng lại được là một trong những ví dụ về ảnh hưởng của mô hình kinh tế – kĩ thuật lên các cá nhân. Romano Guardini đã thấy trước điều này: “Công chúng dễ dàng chấp nhận những điều tầm thường và hình thức sống do máy móc kĩ thuật áp đặt, họ cho rằng sự tương đồng vừa hợp lý vừa công bằng”.[144] Mô hình này làm cho người ta tin rằng họ thực sự tự do bao lâu họ được tự do tiêu thụ, nhưng thực tế cho thấy điều này chỉ có nơi một số ít người đang nắm giữ quyền lực kinh tế và tài chính. Ngay khi rối loạn như thế, nhân loại hậu hiện đại vẫn chưa đạt được nhận thức mới về bản thân, một nhận thức có khả năng hướng dẫn và định hướng, và sự thiếu căn tính này gây ra tình trạng bất an. Chúng ta có quá nhiều phương tiện nhưng mục đích lại quá hạn chế và còi cọc.

Bài này đã được xem 1046 lần!

Pages ( 13 of 17 ): <1 ... 1112 13 1415 ... 17>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]