204. Tình hình toàn cầu hiện nay đang tạo ra một cảm giác bấp bênh và bất ổn, sẽ thúc đẩy “tình trạng ích kỷ tập thể”.[145] Khi con người tự cô lập và khép kín, lòng tham của họ sẽ gia tăng. Tâm hồn của con người càng trống rỗng bao nhiêu thì họ càng cần nhiều thứ để mua, sở hữu và tiêu thụ bấy nhiêu. Họ dường như không thể chấp nhận những giới hạn do thực tại áp đặt. Theo hướng này, cảm thức đích thực về thiện ích chung cũng sẽ biến mất. Khi những thái độ như thế lan rộng thì các chuẩn mực xã hội sẽ chỉ được tôn trọng khi chúng không mâu thuẫn với nhu cầu cá nhân. Vì thế mối bận tâm của chúng ta không thể chỉ giới hạn ở những biến cố thời tiết khắc nghiệt, nhưng phải mở rộng đến những hậu quả tàn khốc của tình trạng mất trật tự xã hội. Ám ảnh với lối sống tiêu thụ, nhất là khi chỉ có một số ít người có khả năng duy trì lối sống ấy, sẽ dẫn tới bạo lực và hủy diệt lẫn nhau.
205. Tuy nhiên tất cả sẽ không hư mất. Con người, trong khi có thể làm điều tồi tệ nhất, cũng có khả năng vượt lên trên chính mình, trở lại để chọn lựa điều tốt đẹp, và thực hiện một sự khởi đầu mới, bất kể điều kiện tinh thần và xã hội của họ. Chúng ta có thể chân thành nhìn vào bản thân, để nhận biết sự bất mãn thẳm sâu của chúng ta, và để dấn thân trên những nẻo đường mới dẫn đến sự tự do đích thực. Không một hệ thống nào có thể hoàn toàn ngăn chặn sự mở lòng của chúng ta đối với điều thiện hảo, chân thật và tuyệt mỹ, hoặc ngăn chặn khả năng Thiên Chúa ban cho chúng ta để đáp trả ân sủng của Ngài đang hoạt động trong đáy sâu tâm hồn. Tôi mời gọi mọi người trên thế giới đừng quên phẩm giá này thuộc về chúng ta. Không ai có quyền lấy khỏi chúng ta phẩm giá ấy.
206. Một sự thay đổi lối sống có thể gây áp lực lành mạnh trên những người đang nắm giữ quyền lực chính trị, kinh tế và xã hội. Đây là cách mà các phong trào người tiêu dùng áp dụng khi tẩy chay các mặt hàng nhất định, họ buộc các doanh nghiệp phải thay đổi cách vận hành, xem lại những dấu ấn trên môi trường và khuôn mẫu sản xuất. Khi áp lực xã hội ảnh hưởng đến các khoản lợi nhuận, các doanh nghiệp rõ ràng sẽ tìm kiếm những cách sản xuất khác. Điều này nhắc nhở chúng ta về cảm thức trách nhiệm xã hội của người tiêu dùng. “Việc mua sắm luôn luôn là một hành vi luân lý – chứ không thuần tuý là hành vi kinh tế”.[146] Tóm lại, ngày nay “vấn đề suy thoái môi trường đang thách đố chúng ta suy xét lại lối sống của chúng ta”.[147]
207. Hiến Chương Trái Đất mời gọi chúng ta bỏ lại phía sau giai đoạn tự huỷ diệt để bắt đầu lại, nhưng chúng ta vẫn chưa phát triển một ý thức phổ quát cần thiết để đạt được điều này. Lúc này đây tôi muốn đề nghị lại một thách đố quả cảm: “Như chưa từng có trước đây trong lịch sử, định mệnh chung đang mời gọi chúng ta tìm kiếm một khởi đầu mới… Hãy làm cho thời đại của chúng ta được công nhận trong lịch sử là thời đại đánh thức lòng kính trọng đối với sự sống, quyết tâm mạnh mẽ để đạt được sự bền vững, tăng tốc đấu tranh cho công lý và hoà bình, hân hoan cử hành đời sống”.[148]
208. Chúng ta luôn có khả năng đi ra khỏi chính mình để đến với người khác. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nhận biết giá trị thực của các thụ tạo khác; chúng ta không bận tâm chăm sóc mọi sự vì lợi ích của người khác; chúng ta không đặt ra giới hạn cho chính mình để tránh gây đau khổ cho người khác hoặc làm suy thoái môi trường xung quanh. Nhất thiết phải có sự quan tâm vô vị lợi dành cho người khác, loại trừ mọi hình thức quy ngã và cô lập nếu chúng ta thực sự mong muốn chăm sóc anh chị em và môi trường thiên nhiên. Nó làm nảy sinh phản ứng luân lý buộc chúng ta xem xét những hành vi và chọn lựa cá nhân tác động ra sao đến môi trường xung quanh. Nếu chúng ta vượt thắng được chủ nghĩa cá nhân, chúng ta có thể thực sự phát huy một lối sống khác và đem lại những thay đổi ý nghĩa trong xã hội.
II. GIÁO DỤC VỀ GIAO ƯỚC GIỮA NHÂN LOẠI VÀ MÔI TRƯỜNG
209. Ý thức mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng văn hoá và sinh thái ngày nay cần phải được chuyển đổi thành những thói quen mới. Nhiều người biết rằng sự tiến bộ hiện tại, sự tích luỹ vật chất và thú vui không đủ mang lại ý nghĩa và niềm vui cho tâm hồn, nhưng họ vẫn cảm thấy chưa thể bỏ qua những gì thị trường cung cấp. Trong những quốc gia cần thay đổi thói quen tiêu dùng, các bạn trẻ có một sự nhạy cảm sinh thái mới và một tinh thần quảng đại, một số bạn trẻ đang thực hiện những nỗ lực đáng nể phục để bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, họ đã trưởng thành trong một bối cảnh xã hội tiêu thụ cực độ và sung túc làm cho họ khó phát huy những thói quen khác biệt. Chúng ta đang phải đối diện với một thách đố về giáo dục.
210. Giáo dục môi trường đã mở rộng các mục tiêu, ban đầu tập trung chủ yếu vào các thông tin khoa học, nâng cao ý thức và phòng ngừa rủi ro môi trường, còn bây giờ nó bao gồm cả việc phê bình về “những huyền thoại” của cái hiện đại dựa trên não trạng thực dụng (chủ nghĩa cá nhân, sự tiến bộ vô hạn, sự cạnh tranh, chủ nghĩa tiêu thụ, thị trường bất quy tắc) và tìm cách khôi phục các cấp độ khác nhau của sự cân bằng sinh thái: trong nội tâm với chính mình, liên đới với người khác, với thiên nhiên và các loài sinh vật khác, và ở mức độ tâm linh là với Thiên Chúa. Giáo dục môi trường cần thực hiện một bước nhảy vọt hướng đến Mầu nhiệm, trong đó đạo đức sinh thái tìm được ý nghĩa sâu xa nhất. Cần những nhà giáo dục có khả năng phát triển nền đạo đức sinh thái, giúp mọi người trưởng thành trong tình liên đới, tinh thần trách nhiệm và sự quan tâm đầy lòng trắc ẩn.
211. Tuy nhiên việc giáo dục này, nhằm mục đích tạo nên “quyền công dân sinh thái”, đôi khi bị giới hạn vào việc cung cấp thông tin, và không đưa đến những thói quen tốt. Sự tồn tại của pháp luật và những quy định chưa đủ để ngăn chặn hành vi đối xử tệ hại trong thời gian dài, ngay cả khi có các phương thế bắt buộc hữu hiệu. Để pháp luật mang lại những ảnh hưởng quan trọng và lâu dài, đa số các thành viên của xã hội phải được khích lệ để chấp nhận chúng, và đáp trả bằng cách biến đổi cá nhân. Chỉ bằng cách vun trồng các nhân đức vững chắc thì con người mới có thể quên mình cho dấn thân sinh thái. Một người có đủ khả năng chi trả nhưng bớt sử dụng máy sưởi và mặc các loại áo ấm hơn, cho thấy người đó xác tín và có thái độ bảo vệ môi trường.
Có một sự cao quý trong nghĩa vụ chăm sóc công trình tạo dựng thông qua những việc nhỏ hằng ngày, và thật tuyệt vời biết bao khi việc giáo dục có thể mang lại những thay đổi thực sự trong lối sống. Giáo dục tinh thần trách nhiệm đối với môi trường có thể khích lệ những hành động ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến thế giới xung quanh, như tránh sử dụng nhựa và giấy, giảm bớt sử dụng nước, phân loại rác, chỉ nấu những gì thực sự cần thiết, quan tâm đến những sinh vật khác, sử dụng phương tiện giao thông công cộng hay đi xe chung, trồng cây, tắt đèn khi không cần thiết, và vô số hành động khác. Những điều này phản ánh một sự sáng tạo quảng đại và xứng đáng đem lại điều tốt nhất cho con người. Việc tái sử dụng một thứ gì đó thay vì bỏ ngay lập tức vì những lý do chính đáng có thể là một hành động của tình yêu diễn tả phẩm giá của chúng ta.
212. Chúng ta không được nghĩ rằng những nỗ lực này không thể thay đổi thế giới. Chúng đang sinh lợi ích cho xã hội, dù chúng ta không biết, vì những điều tốt đẹp chắc chắn có xu hướng lan rộng, ngay cả khi chúng ta không thấy. Hơn nữa, những hành động như thế có thể khôi phục cảm thức về lòng tự trọng của chúng ta; dẫn chúng ta đến bản chất sâu xa của hữu thể, sống trọn vẹn hơn và cảm nhận sự sống trên trái đất có giá trị.
213. Việc giáo dục sinh thái có thể diễn ra ở nhiều hoàn cảnh khác nhau: ở trường học, trong gia đình, trên truyền thông, trong bài giáo lý hay bất cứ nơi nào. Nền giáo dục tốt khi còn trẻ sẽ gieo những hạt giống và tiếp tục sinh hoa trái trong suốt cuộc đời. Tuy nhiên, ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng lớn lao của gia đình, là “nơi sự sống – quà tặng của Thiên Chúa – được đón nhận trọn vẹn, được bảo vệ chống lại mọi cuộc tấn công, và có thể phát triển phù hợp với sự trưởng thành đích thực của con người. Trái ngược với cái gọi là nền văn hoá sự chết, gia đình là trái tim của nền văn hoá sự sống”. Trong gia đình, trước hết chúng ta học cách thể hiện tình yêu và tôn trọng sự sống; chúng ta học biết sử dụng đúng mọi thứ, ngăn nắp và sạch sẽ, tôn trọng hệ sinh thái địa phương và chăm sóc mọi loài thụ tạo. Trong gia đình, chúng ta lãnh nhận nền giáo dục toàn diện, giúp chúng ta lớn lên cách hài hòa với sự trưởng thành cá nhân.[149] Trong gia đình, chúng ta học cách xin mà không đòi hỏi, biết nói “cảm ơn” để diễn tả lòng biết ơn đích thực vì những điều chúng ta được lãnh nhận, biết tự chủ tính nóng giận và lòng tham, biết xin lỗi khi làm điều sai trái. Những nghĩa cử đơn giản của phép lịch sự chân thành tạo nên văn hoá của đời sống chung và tôn trọng môi trường xung quanh.
214. Các thể chế chính trị và nhiều nhóm xã hội khác nhau được uỷ thác nhiệm vụ gia tăng ý thức của người dân. Hội Thánh cũng vậy. Tất cả mọi cộng đoàn Kitô hữu đều có vai trò quan trọng trong việc giáo dục sinh thái. Tôi hy vọng các chủng viện và các nhà đào luyện của chúng ta sẽ giáo dục một đời sống giản dị đầy trách nhiệm, sự chiêm niệm với lòng biết ơn về thế giới Chúa tặng ban, quan tâm đến nhu cầu của người nghèo và bảo vệ môi trường. Vì những nguy cơ đang quá cao nên chúng ta cần những thể chế đủ mạnh để xử phạt những vụ tấn công vào môi trường, nhưng chúng ta cũng cần tự chủ và sẵn lòng học hỏi lẫn nhau.
215. Trong vấn đề này, không nên bỏ qua “mối tương quan giữa giáo dục thẩm mỹ đầy đủ và duy trì một môi trường lành mạnh”.[150] Học biết nhận ra và trân trọng vẻ đẹp, chúng ta sẽ thoát ra khỏi chủ nghĩa thực dụng tiện ích cá nhân. Nếu một người không biết dừng lại và thán phục cái đẹp, thì sẽ không có gì là ngạc nhiên nếu người ấy đối xử với mọi thứ như thể đối tượng để sử dụng và lạm dụng không chút đắn đo. Nếu chúng ta muốn đạt được sự thay đổi sâu sắc, chúng ta cần biết rằng não trạng thực sự ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta. Những nỗ lực giáo dục của chúng ta vẫn không đủ và không hiệu quả nếu chúng ta không cổ võ một cách nghĩ mới về con người, sự sống, xã hội và mối tương quan của chúng ta với thiên nhiên. Bằng không, mô hình của chủ nghĩa tiêu thụ sẽ tiếp tục lấn át với sự hỗ trợ của truyền thông và những cơ chế hữu hiệu của thị trường.
III. HOÁN CẢI SINH THÁI
216. Di sản phong phú của linh đạo Kitô giáo, hoa trái của kinh nghiệm cá nhân và cộng đoàn trong suốt 20 thế kỷ, góp phần quý báu trong việc đổi mới nhân loại. Ở đây, tôi muốn đề nghị một vài điểm của nền linh đạo sinh thái cho người Kitô hữu dựa trên những xác tín của chúng ta, vì những giáo huấn của Tin Mừng tác động trực tiếp đến cách nghĩ, cách cảm nhận và cách sống của chúng ta. Không phải là ý tưởng hay khái niệm, điều tôi quan tâm là nền linh đạo ấy thúc đẩy chúng ta nuôi dưỡng niềm đam mê bảo vệ thế giới. Sự dấn thân cao cả này không thể được duy trì bởi học thuyết mà không có nền linh đạo gợi hứng, một “động lực nội tâm khích lệ, động viên, nuôi dưỡng và mang lại ý nghĩa cho hoạt động cá nhân và cộng đoàn của chúng ta”.[151] Phải nhìn nhận rằng, các Kitô hữu đã không luôn trân trọng và phát triển những kho tàng thiêng liêng được Thiên Chúa phú ban cho Hội Thánh, trong đó đời sống tinh thần không tách lìa khỏi thân xác, khỏi thiên nhiên hay những thực tại thế giới, nhưng sống cùng và sống với, trong sự hiệp thông với tất cả mọi sự xung quanh chúng ta.
217. “Các sa mạc bên ngoài ngày càng nhiều, vì những sa mạc bên trong đã quá bao la”.[152] Vì lý do này, cuộc khủng hoảng sinh thái đòi hỏi sự hoán cải nội tâm sâu sắc. Phải chân nhận rằng có một số Kitô hữu chuyên tâm dấn thân và cầu nguyện, nhưng họ lại viện cớ chủ nghĩa thực tế và thực dụng nên có khuynh hướng coi thường mối bận tâm đến môi trường. Những người khác thì thụ động; họ không chịu thay đổi thói quen và do đó trở nên bất nhất. Điều mà tất cả họ cần là “sự hoán cải sinh thái”, nhờ đó hoa trái của cuộc gặp gỡ giữa họ với Đức Giêsu Kitô trở nên chứng tá trong mối tương quan của họ với thế giới xung quanh. Sống ơn gọi làm người bảo vệ công trình tay Chúa dựng nên là yếu tố thiết yếu của đời sống nhân đức; chứ không phải là một chọn lựa hay một khía cạnh thứ yếu của kinh nghiệm Kitô giáo.
218. Trong khi gợi nhớ mẫu gương sáng ngời của thánh Phanxicô Assisi, chúng ta ý thức rằng mối tương quan lành mạnh với tạo thành là một chiều kích hoán cải cá nhân toàn diện, bao gồm cả việc nhận biết những sai lầm, tội lỗi, khuyết điểm và thất bại của chúng ta, phải đi tới sám hối chân thành và khao khát thay đổi. Hội đồng Giám mục Úc nói về tầm quan trọng của sự hoán cải nhằm hoà giải với công trình tạo dựng: “Để đạt được sự hoà giải như thế, chúng ta phải xét lại đời sống và chân nhận những gì chúng ta gây thiệt hại đến công trình tạo dựng của Thiên Chúa ngang qua những hoạt động của chúng ta và cả những hành động cần làm mà chúng ta bỏ qua”. Chúng ta cần phải hoán cải, phải thay đổi tâm hồn”.[153]
219. Tuy nhiên, chỉ có các cá nhân tự cải thiện thì không đủ để giải quyết tình hình cực kỳ phức tạp của thế giới hôm nay. Các cá nhân riêng lẻ dần dần có thể mất khả năng và tự do để thoát khỏi não trạng thực dụng, và cuối cùng đầu hàng trước chủ nghĩa tiêu thụ vô đạo đức đang tước đoạt ý thức xã hội và sinh thái. Các vấn đề xã hội phải được các mạng lưới cộng đồng quan tâm, chứ không chỉ bởi một tổng thể các cá nhân có hành vi tốt. Nhiệm vụ này “tạo nên những đòi hỏi lớn lao mà con người không bao giờ đạt được bằng sáng kiến cá nhân hay thậm chí bởi nỗ lực hợp tác của những hình thức riêng lẻ. Việc điều hành thế giới mời gọi một sự kết hợp các nguồn lực và thành tựu phát xuất từ một thái độ khác”.[154] Hoán cải sinh thái cần thiết cho một sự thay đổi dài lâu cũng là một sự hoán cải cộng đồng.
220. Sự hoán cải này bao gồm nhiều thái độ để có thể cùng nhau nuôi dưỡng tinh thần chăm sóc đại lượng, dịu dàng. Trước hết là lòng biết ơn và sự nhưng không, nhận biết rằng thế giới là quà tặng yêu thương của Thiên Chúa, và chúng ta được mời gọi cách âm thầm để noi theo lòng quảng đại của Người trong sự tự hiến và điều thiện hảo: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm,để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,3-4). Sự hoán cải này cũng bao hàm một nhận thức trìu mến về sự liên kết của chúng ta với toàn thể thụ tạo, cùng dự phần trong sự hiệp thông hoàn vũ tuyệt vời. Là tín hữu, chúng ta không nhìn thế giới từ bên ngoài mà từ bên trong, ý thức về các mối dây mà Chúa Cha đã liên kết chúng ta với tất cả mọi hữu thể. Qua việc phát triển cá nhân và những khả năng Thiên Chúa ban tặng, sự hoán cải sinh thái có thể thúc đẩy chúng ta sáng tạo và nhiệt thành hơn trong việc giải quyết các vấn đề của thế giới và trong việc hiến dâng chính bản thân chúng ta lên Thiên Chúa “như một của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Người” (Rm 12,1). Chúng ta đừng hiểu sự ưu việt của chúng ta là một lý do tôn vinh cá nhân hay thống trị cách vô trách nhiệm, nhưng nó là một trách nhiệm nghiêm túc xuất phát từ niềm tin của chúng ta.
221. Những xác tín khác nhau được triển khai ngay từ đầu của Thông điệp này có thể giúp chúng ta làm phong phú ý nghĩa của cuộc hoán cải này; bao gồm ý thức rằng mỗi thụ tạo đều phản chiếu một điều gì đó thuộc về Thiên Chúa và có một thông điệp gởi đến cho chúng ta, và bảo đảm rằng Đức Kitô đã tháp nhập thế giới vật chất này vào bản thân Ngài và bây giờ đã phục sinh, Ngài hiện diện thiết thân trong mỗi hữu thể, bao bọc nó bằng tình thương của Ngài và làm cho nó rạng ngời bằng ánh sáng của Ngài. Cũng như khi nhìn nhận Thiên Chúa đã tạo nên thế giới, Ngài viết vào đó một trật tự và năng động mà con người không có quyền bỏ qua. Chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói về các loài chim trời mà “không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,6). Vậy làm sao chúng ta có thể đối xử tệ với chúng hoặc gây nguy hại cho chúng? Tôi mời gọi tất cả mọi Kitô hữu hãy nhận biết và sống trọn vẹn chiều kích này của sự hoán cải. Chớ gì năng quyền và ánh sáng của ân sủng mà chúng ta đã lãnh nhận cũng thể hiện trong mối tương quan của chúng ta với các loài thụ tạo khác và với thế giới xung quanh. Bằng cách này, chúng ta giúp nuôi dưỡng tình huynh đệ tuyệt vời với tất cả công trình tạo dựng mà thánh Phanxicô Assisi đã nêu gương sáng ngời.
Bài này đã được xem 1024 lần!