30. Ngay cả khi nguồn nước chất lượng có sẵn đang liên tục thiếu thốn, thì ở một số nơi lại có xu hướng gia tăng tư hữu hoá nguồn nước, bất chấp sự khan hiếm nước, biến nó thành một món hàng hoá chịu sự chi phối của các quy luật thị trường. Mặc dù việc tiếp cận nguồn nước uống an toàn là quyền căn bản và phổ quát của con người, vì nó thiết yếu cho sự tồn tại của con người, và như thế, nó là một điều kiện cho việc thi hành các quyền khác của con người. Thế giới của chúng ta đang mang một món nợ xã hội lớn đối với người nghèo là những người đang thiếu nguồn nước uống, vì họ bị khước từ quyền được sống nhất quán với phẩm giá bất khả xâm phạm của họ. Món nợ này có thể được trả một phần bằng việc gia tăng nguồn quỹ để cung cấp nước sạch và các dịch vụ vệ sinh cho những người nghèo. Nhưng nguồn nước vẫn tiếp tục bị lãng phí, không chỉ ở thế giới phát triển mà còn ở các quốc gia đang phát triển sở hữu nguồn nước dồi dào. Điều này cho thấy rằng vấn đề về nguồn nước một phần là vấn đề giáo dục và văn hoá, vì có ít nhận thức về tính nghiêm trọng của hành vi như thế trong bối cảnh bất bình đẳng lớn.
31. Hơn nữa, khan hiếm nước sẽ dẫn đến sự tăng giá lương thực và nhiều loại sản phẩm khác tuỳ thuộc vào việc sử dụng nước. Một số nghiên cứu cảnh báo rằng sự thiếu nước trầm trọng có thể xảy ra trong một vài thập kỷ tới nếu chúng ta không hành động khẩn cấp. Những hậu quả về môi trường có thể ảnh hưởng đến hàng tỷ người; cũng dễ nhận thấy rằng việc kiểm soát nguồn nước bởi các tập đoàn kinh doanh đa quốc gia sẽ trở thành một nguồn mâu thuẫn lớn trong thế kỷ này.[23]
III. ĐÁNH MẤT SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC
32. Các nguồn của trái đất cũng đang bị mất đi vì những cách tiếp cận thiển cận của nền kinh tế, thương mại và sản xuất. Việc mất đi các khu rừng và những vùng đất có cây cối kéo theo sự mất mát các chủng loại có thể tạo nên các nguồn cực kỳ quan trọng trong tương lai, không chỉ về thực phẩm mà còn cho việc chữa bệnh và những sử dụng khác. Các chủng loại khác nhau chứa đựng các gien có thể trở thành những nguồn chính trong những năm kế tiếp để đáp ứng nhu cầu của con người và điều tiết các vấn đề về môi trường.
33. Tuy nhiên, chỉ nghĩ về các chủng loại khác nhau như là “những nguồn” thuần túy để khai thác thì không đủ, cần phải nhìn nhận sự thật là chúng có giá trị nội tại. Mỗi năm đều thấy sự biến mất của hàng ngàn loại động thực vật khác nhau mà chúng ta chưa bao giờ biết đến, con cái của chúng ta không bao giờ thấy, vì chúng đã bị mất đi vĩnh viễn. Đại đa số bị tuyệt chủng vì những lý do liên quan đến hoạt động của con người. Vì chúng ta mà hàng ngàn chủng loại sẽ không còn làm vinh quang Thiên Chúa qua hiện hữu của chúng, cũng không mang lại thông điệp của chúng cho chúng ta nữa. Chúng ta không được quyền làm như thế.
34. Chúng ta có lẽ đau lòng khi biết về sự tuyệt chủng của các loại động vật có vú hay các loại chim, vì chúng dễ nhận thấy hơn. Nhưng hệ sinh thái hoạt động tốt cũng cần phải có các loại nấm, tảo, giun, côn trùng, các loài bò sát và vô số vi sinh vật đa dạng khác. Một số loại dù số lượng ít, nhìn chung thì không thấy, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì thế quân bình ở một nơi đặc thù nào đó. Con người phải can thiệp khi một hệ sinh thái theo vùng địa lý ở trong tình trạng báo động. Tuy nhiên, ngày nay, sự can thiệp vào thiên nhiên ngày càng thường xuyên hơn. Hậu quả là những vấn đề nghiêm trọng gia tăng, dẫn đến những can thiệp khác; hoạt động của con người ở khắp nơi, với tất cả mọi rủi ro kèm theo. Khi con người can thiệp để giải quyết một vấn đề thì thường cái vòng luẩn quẩn ấy lại làm cho tình hình thêm trầm trọng hơn. Chẳng hạn, nhiều loại chim và côn trùng biến mất do những loại thuốc diệt thực vật tổng hợp hữu ích cho nông nghiệp: sự biến mất của chúng sẽ được đền bù bởi những kỹ thuật khác có thể nguy hại hơn. Chúng ta phải biết ơn những nỗ lực đáng ca tụng của các nhà khoa học và kỹ sư nhằm tìm các giải pháp cho những vấn đề do con người tạo nên. Tuy nhiên một cái nhìn tỉnh táo vào thế giới cho thấy rằng mức độ can thiệp của con người, thường là trong việc phục vụ cho những lợi ích kinh doanh hay chủ nghĩa tiêu thụ, thực sự đang làm cho trái đất của chúng ta kém phong phú và tươi đẹp, giới hạn và thê lương hơn bao giờ hết, ngay cả khi những tiến bộ công nghệ và hàng hoá tiêu dùng tiếp tục được làm ra nhiều vô cùng. Dường như chúng ta nghĩ rằng có thể thay thế một vẻ đẹp bất khả thế và bất khả vãn hồi này bằng một điều mà chúng ta tự tạo ra.
35. Trong khi đánh giá mức độ ảnh hưởng môi trường của bất kì một dự án nào, chúng ta thường chỉ bận tâm đến ảnh hưởng của nó trên đất, nước và không khí, nhưng rất ít nghiên cứu cẩn trọng về tác động của nó trên sự đa dạng sinh học, như thể việc mất đi các chủng loại, các động vật và nhóm thực vật là không quan trọng. Những đường cao tốc, các đồn điền mới, những nơi có hàng rào, các đập nước, và những triển khai tương tự lấn chiếm môi trường sống tự nhiên và đôi khi phá vỡ chúng đến nỗi các loại động vật không còn có thể di chuyển hay tự do lang thang nữa. Hậu quả là một số loài đang đối diện với sự tuyệt chủng. Cũng có một số biện pháp thay thế để giảm thiểu sự tác động của những dự án này, như việc tạo nên những hành lang sinh học, nhưng rất ít quốc gia lưu tâm và dự kiến về vấn đề này. Thông thường, khi những chủng loại nhất định bị khai thác cho mục đích thương mại, thì người ta lại rất ít nghiên cứu khuôn mẫu sinh sản của chúng để tránh sự tàn phá và sự bất quân bình kéo theo của hệ sinh thái.
36. Chăm sóc cho các hệ sinh thái đòi hỏi một tầm nhìn xa, vì không ai tìm kiếm lợi nhuận cách nhanh chóng và dễ dãi lại thực sự yêu thích việc bảo tồn các hệ thống này. Cái giá phải trả cho sự phá huỷ vì ích kỷ, thiếu quan tâm thì lớn hơn nhiều so với các lợi ích kinh tế cần đạt được. Nơi nào các chủng loại nhất định đang bị huỷ diệt hoặc đang bị gây tổn hại nghiêm trọng, thì nơi đó các giá trị liên quan đều không thể lường được. Chúng ta có thể là những chứng nhân câm nín trước những bất công khủng khiếp nếu chúng ta nghĩ rằng có thể đạt được những lợi ích ý nghĩa bằng việc làm cho toàn thể nhân loại còn lại, hiện tại và tương lai, trả giá đắt cho sự suy thoái môi trường.
37. Một số quốc gia đã thực hiện những tiến bộ ý nghĩa trong việc tạo nên “những cung thánh” trên đất liền và đại dương, nơi đó cấm bất kỳ một sự can thiệp nào của con người làm thay đổi các đặc tính của chúng hay cấu trúc nguyên gốc của chúng. Trong việc bảo vệ sự đa dạng sinh học, các chuyên gia khẳng định nhu cầu chú ý đặc biệt đến những khu vực phong phú hơn cả về số lượng chủng loại và đặc hữu, các chủng loại hiếm hay ít được bảo vệ. Một số nơi nhất định cần được bảo vệ nhiều hơn vì tầm quan trọng lớn lao của chúng đối với hệ sinh thái toàn cầu, hoặc vì chúng có lượng bảo tồn nước quan trọng và do đó bảo vệ được các hình thức sống khác.
38. Chẳng hạn, chúng ta hãy đề cập đến những lá phổi đa dạng sinh học của hành tinh như Amazon và các lưu vực Congo, hoặc các tầng ngậm nước và sông băng lớn. Chúng ta biết những nơi này quan trọng thế nào đối với toàn thể cõi đất và đối với tương lai của nhân loại. Các hệ sinh thái của các khu rừng nhiệt đới sở hữu sự đa dạng sinh học phức hợp vô cùng lớn lao mà chúng ta hầu như không thể đánh giá một cách đầy đủ được, nhưng khi những khu rừng này bị thiêu rụi hay bị hạ xuống cho mục đích canh tác, thì trong vòng vài năm thôi, có vô số chủng loại sẽ biến mất và những khu vực này trở thành vùng đất hoang khô cằn. Một sự quân bình tinh tế cần phải được duy trì khi nói về những nơi này, vì chúng ta không thể coi nhẹ những lợi ích kinh tế toàn cầu khổng lồ mà dưới chiêu bài bảo vệ chúng, có thể làm suy yếu chủ quyền của các quốc gia riêng lẻ. Thực ra có “những đề xuất nhằm quốc tế hoá rừng Amazon, là những đề xuất chỉ phục vụ cho những lợi ích kinh tế của các tập đoàn xuyên quốc gia”.[24] Chúng ta không thể không ca ngợi sự dấn thân của các cơ quan quốc tế và các tổ chức xã hội dân sự đã cuốn hút sự chú ý của công chúng vào những vấn đề này và đưa ra sự hợp tác rất quan trọng, áp dụng các phương tiện gây áp lực hợp pháp, để đảm bảo rằng mỗi chính phủ cần thực thi trách nhiệm đúng đắn và bất khả xâm phạm để bảo tồn môi trường và các nguồn thiên nhiên của đất nước mình, mà không đầu hàng trước những lợi ích địa phương hay quốc tế nguỵ tạo.
39. Việc thay thế khu rừng nguyên vẹn bằng những đồn điền cây xanh, thường là dạng độc canh, ít được phân tích đầy đủ. Biện pháp này có thể làm tổn hại nghiêm trọng đến sự đa dạng sinh học nếu các chủng loại mới tỏ ra không thích hợp. Tương tự như thế, những vùng đất ngập nước được chuyển thành đất canh tác sẽ làm mất đi sự da dạng sinh học khổng lồ mà những vùng này trước đây nắm giữ. Ở một số vùng ven biển, sự biến mất các hệ sinh thái được nuôi dưỡng bằng những đầm lầy ngập mặn cần phải được quan tâm cách nghiêm túc.
40. Các đại dương không chỉ chứa đựng một lượng khổng lồ nguồn cung cấp nước cho hành tinh của chúng ta, nhưng còn có vô vàn các sinh vật sống, mà nhiều loại trong số đó chúng ta vẫn chưa biết đến và đang bị đe doạ vì nhiều lý do khác nhau. Hơn nữa, sự sống trên biển, nơi các sông ngòi, các ao hồ và đại dương, là nguồn đang nuôi sống phần lớn dân số thế giới, lại đang chịu ảnh hưởng bởi việc đánh bắt không kiểm soát, huỷ diệt ghê gớm một số loài nhất định. Việc lựa chọn cá rồi loại bỏ phần lớn những gì đánh bắt được tiếp tục gia tăng. Các sinh vật biển mà chúng ta có khuynh hướng coi thường, như một số hình thức phiêu sinh vật bị đe dọa trầm trọng; chúng đại diện cho một yếu tố quan trọng trong chuỗi thực phẩm ở đại dương, và nhiều loài được sử dụng cho nguồn thực phẩm của chúng ta cuối cùng cũng lệ thuộc vào chúng.
41. Ở những vùng biển nhiệt đới và phụ cận nhiệt đới, chúng ta thấy các dải san hô ngầm có thể so sánh với những cánh rừng rộng lớn trên đất liền, vì chúng là nơi trú ẩn của cả triệu chủng loại, bao gồm cá, cua, động vật thân mềm, bọt biển và tảo. Nhiều dải san hô ngầm đã bị cằn cỗi hoặc ở trong tình trạng suy thoái liên tục. “Ai đã làm cho thế giới kỳ diệu của biển trở thành những nghĩa trang dưới nước bị tước mất sắc màu và sự sống?”[25] Hiện tượng này phần lớn là do nạn ô nhiễm đã chảy ra tới biển như là hậu quả của nạn phá rừng, độc canh nông nghiệp, chất thải công nghiệp và các phương pháp đánh bắt cá mang tính huỷ diệt, đặc biệt là các phương pháp dùng chất xyanít và thuốc nổ. Nhiệt độ của đại dương gia tăng càng làm cho tình trạng nghiêm trọng hơn. Tất cả điều này cho thấy mọi sự can thiệp vào thiên nhiên có thể có những hậu quả vốn không tỏ tường ngay, và một số cách khai thác các nguồn tài nguyên phải trả giá bằng sự suy thoái chạm tới cả đại dương.
42. Cần phải đầu tư nghiên cứu nhiều để hiểu đầy đủ về chức năng của các hệ sinh thái và phân tích hết các biến số khác nhau có liên hệ đến bất kì một sự thay đổi quan trọng nào của môi trường. Tất cả các loài thụ tạo đều có liên hệ với nhau, mỗi loài phải được nuôi dưỡng bằng tình yêu và sự tôn trọng, vì tất cả chúng ta là những sinh vật sống lệ thuộc vào nhau. Mỗi vùng chịu trách nhiệm chăm sóc cho gia đình này. Cần có trách nhiệm khám phá cẩn trọng các chủng loại trong mỗi vùng đất, với tầm nhìn phát triển những chương trình và chiến lược bảo vệ và chăm sóc đặc biệt cho các chủng loại đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
IV. SUY GIẢM PHẨM CHẤT ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI VÀ SUY THOÁI XÃ HỘI
43. Con người cũng là những thụ tạo của thế giới này, vui hưởng quyền được sống và hạnh phúc, được ban tặng một phẩm giá độc nhất. Vì thế chúng ta không thể không nhìn nhận những tác động của suy thoái môi trường lên đời sống con người, những khuôn mẫu phát triển hiện tại và nền văn hoá loại bỏ.
44. Ngày nay, chúng ta thấy sự phát triển không phù hợp và không đúng của nhiều thành phố, trở thành nơi không đủ lành mạnh để sinh sống, không chỉ vì ô nhiễm do chất thải độc hại mà còn vì sự hỗn loạn thành thị, giao thông nghèo nàn và tiếng ồn. Nhiều thành phố rất lớn lại có cấu trúc không hiệu quả, gây lãng phí quá nhiều nguồn năng lượng và nước. Những vùng phụ cận, ngay cả những vùng mới xây dựng, cũng chật chội, hỗn loạn và thiếu không gian xanh. Chúng ta không được sinh ra để bị bao trùm bởi bê tông, nhựa đường, thuỷ tinh, kim loại, và bị tước mất mối tương giao về mặt thể lý với thiên nhiên.
45. Ở một số nơi, cả thành thị lẫn thôn quê, việc tư nhân hoá một số không gian đã giới hạn khả năng tiếp cận những nơi có vẻ đẹp đặc biệt. Tại một số nơi khác, vùng phụ cận “sinh thái” được tạo nên gần với những vùng ngoại biên để đảm bảo một sự thanh bình giả tạo. Thông thường, không gian xanh và đẹp được cắt tỉa cẩn thận tọa lạc ở những nơi tạm gọi là “vùng an toàn” của các thành phố, nhưng nó không nằm trong góc khuất mà những người bị loại ra khỏi xã hội đang sinh sống.
46. Các chiều kích xã hội của sự biến đổi toàn cầu bao gồm cả những tác động của đổi mới công nghệ trên việc làm, loại trừ xã hội, sự phân phối và tiêu thụ bất bình đẳng nguồn năng lượng và các dịch vụ khác, sự sụp đổ xã hội, bạo lực và những hình thức bạo loạn xã hội mới lan tràn, buôn bán ma túy, tăng cường sử dụng thuốc gây nghiện trong giới trẻ, và đánh mất căn tính. Đây là những dấu hiệu cho thấy sự phát triển của hai thế kỷ vừa qua không toàn diện và không thăng tiến phẩm chất của đời sống. Một số những dấu hiệu này cũng là triệu chứng của suy thoái xã hội thực sự, âm thầm bẻ gãy những mối dây liên kết của sự toàn diện và thống nhất xã hội.
47. Hơn nữa, khi thế giới truyền thông và kỹ thuật số có mặt ở khắp nơi, sức ảnh hưởng của nó có thể làm cho con người không còn học cách sống khôn ngoan, suy nghĩ sâu sắc và yêu thương cách quảng đại nữa. Trong bối cảnh này, các bậc tiền bối vĩ đại có nguy cơ không được lắng nghe giữa những ồn ào và phân tâm của sự quá tải thông tin. Cần phải nỗ lực để làm cho các phương tiện truyền thông trở thành những nguồn lực của sự tiến bộ văn hoá mới cho nhân loại chứ không phải là mối đe dọa cho sự phong phú sâu sắc của chúng ta. Sự khôn ngoan đích thực, là hoa trái của việc xét mình, đối thoại và gặp gỡ phong phú giữa các ngôi vị, không đạt được bởi sự tích luỹ thuần tuý về dữ liệu, sau cùng sẽ dẫn đến tình trạng quá tải và hỗn độn, một kiểu ô nhiễm về tâm thần. Mối tương quan đích thực với người khác cùng với tất cả những thách đố của nó, giờ đây có khuynh hướng bị thay thế bởi một kiểu giao tiếp trên mạng khiến chúng ta lựa chọn hay loại bỏ tương quan ngay lập tức, do đó nổi lên một kiểu tình cảm giả tạo, là thứ tình cảm tương tác với thiết bị và màn hình nhiều hơn là với con người và thiên nhiên. Truyền thông ngày nay có thể giúp chúng ta giao tiếp, chia sẻ kiến thức và tình cảm với nhau. Tuy nhiên chúng cũng tách lìa chúng ta khỏi mối liên hệ trực tiếp với nỗi đau, nỗi sợ hãi, niềm vui và những kinh nghiệm cá nhân phức tạp của người khác. Vì lý do này, chúng ta phải lưu ý rằng, bên cạnh những khả thể đầy phấn khích do truyền thông mang lại, cũng có thể xuất hiện một sự bất mãn sâu sắc và đáng buồn với mối tương quan liên vị, hay một cảm thức bị cô lập nguy hại.
V. SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG TOÀN CẦU
48. Môi trường con người và môi trường tự nhiên xuống cấp cùng nhau; chúng ta không thể đấu tranh chống suy thoái môi trường nếu chúng ta không đi vào những căn nguyên có liên hệ đến suy thoái con người và xã hội. Thực ra, suy thoái môi trường và xã hội tác động đến những người bị tổn thương nhất trên hành tinh này: “Cả kinh nghiệm hằng ngày và nghiên cứu khoa học cho thấy rằng người nghèo khổ phải hứng chịu những tác động nghiêm trọng nhất của tất cả mọi cuộc tấn công vào môi trường”.[26] Chẳng hạn, cạn kiệt nguồn dự trữ cá gây tổn hại đặc biệt đến các cộng đồng đánh bắt nhỏ không có phương tiện để thay thế những nguồn này; tình trạng ô nhiễm nước đặc biệt tác động đến người nghèo là những người không thể mua nước đóng chai; và mực nước biển dâng cao tác động chủ yếu trên những người dân sống ở ven biển đã bị khánh kiệt đến nỗi không còn nơi nào khác để đi. Tác động của sự mất cân bằng hiện nay cũng thể hiện trong việc nhiều người nghèo chết sớm, trong các mâu thuẫn nổ ra do thiếu các nguồn tài nguyên và trong bất kỳ vấn đề nào khác chưa được bàn luận hiệu quả trong các chương trình nghị sự toàn cầu.[27]
Bài này đã được xem 1042 lần!