49. Nhìn chung có rất ít nhận thức rõ ràng về các vấn đề đang đặc biệt ảnh hưởng đến những người bị loại trừ. Tuy nhiên họ lại chiếm phần đa dân số của hành tinh này, lên đến hàng tỷ người. Ngày nay, họ được đề cập đến trong các thảo luận chính trị và kinh tế quốc tế, nhưng có cảm tưởng rằng các vấn đề của họ được nêu lên như một tư tưởng đến sau, một vấn đề phụ được thêm vào bên lề nhiệm vụ chính hoặc theo tuyến tính, nếu không nói là bị xem như sự phá hoại. Thực ra, khi tất cả được nói đến và được thực hiện, thì họ thường vẫn cứ ở dưới đáy của một khối đồ sộ. Sự thật là giới chuyên môn, những người đưa ra ý kiến, truyền thông đại chúng và các trung tâm quyền lực hoàn toàn đặt ở những vùng đô thị giàu có, xa rời với người nghèo, rất ít liên hệ trực tiếp đến các vấn đề của người nghèo. Họ sống và lý luận từ một vị thế thoải mái của sự phát triển cao cấp và chất lượng sống vượt xa khỏi tầm với của đại đa số dân cư trên thế giới. Được cổ võ bởi tình trạng phân mảnh giữa các thành phố của chúng ta, việc thiếu liên hệ và gặp gỡ thể lý này có thể dẫn đến tình trạng tê liệt lương tâm và những phân tích có khuynh hướng phớt lờ các yếu tố của thực tại. Đôi khi thái độ này tồn tại cận kề với lối hùng biện “xanh”. Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta cần nhận biết rằng tiếp cận sinh thái thực sự luôn luôn là một cách tiếp cận mang tính xã hội; hội nhập các vấn đề về công lý vào trong những cuộc đấu tranh về môi trường, để có thể nghe được cả tiếng than khóc của trái đất và tiếng than khóc của người nghèo.
50. Thay vì giải quyết các vấn đề của người nghèo và nghĩ xem thế giới có thể trở nên khác đi thế nào, một số người lại đưa ra vấn đề giảm tỷ lệ sinh sản. Đôi khi, các nước đang phát triển phải đối diện với hình thức áp lực quốc tế, theo đó việc trợ giúp kinh tế chỉ có dựa trên những chính sách cụ thể về “sức khoẻ sinh sản”. “Trong khi đúng là sự phân phối không đều về dân số và những nguồn tài nguyên sẵn có tạo nên những trở ngại cho sự phát triển và việc sử dụng môi trường cách bền vững, dù sao cũng phải công nhận rằng tăng trưởng dân số là hoàn toàn tương thích với một sự phát triển toàn diện và chia sẻ”.[28] Đổ lỗi cho tăng trưởng dân số thay vì chủ nghĩa tiêu thụ cực độ và chọn lọc của một số người là một cách từ chối đối diện với các vấn đề. Đây thực ra chỉ là một nỗ lực để hợp thức hoá mô hình phân phối hiện tại mà một thiểu số tin rằng họ có quyền tiêu thụ theo cách riêng. Không bao giờ mọi người có thể hành xử như họ được, vì hành tinh này thậm chí không thể chứa nổi chất thải của một lối tiêu thụ như thế. Bên cạnh đó, chúng ta biết rằng xấp xỉ một phần ba số lương thực sản xuất ra bị loại bỏ, và “bất cứ nơi nào thực phẩm bị quẳng đi thì như thể là nó đã bị đánh cắp từ bàn ăn của người nghèo”.[29] Tuy nhiên, cần phải chú ý đến tình trạng mất quân bình về mật độ dân số, cả trên cấp độ quốc gia và toàn cầu, vì tiêu thụ gia tăng sẽ dẫn đến những hoàn cảnh phức tạp trong vùng. Nó là hậu quả của sự giao thoa các vấn đề có liên hệ đến tình trạng ô nhiễm môi trường, giao thông, xử lý chất thải, mất nguồn tài nguyên và chất lượng cuộc sống.
51. Sự bất bình đẳng không chỉ tác động đến cá nhân mà còn đến toàn bộ các quốc gia; nó mời gọi chúng ta xem xét các giá trị đạo đức trong mối quan hệ quốc tế. Một “món nợ môi sinh” thực sự đang tồn tại, đặc biệt là giữa bán cầu nam và bán cầu bắc, liên kết những bất quân bình về thương mại với những tác động đến môi trường, và việc sử dụng không phù hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên của một số quốc gia cụ thể trong một thời gian lâu dài. Việc xuất khẩu các nguyên liệu thô để thoả mãn các thị trường công nghiệp phía bắc gây nguy hại đến địa phương, như đã nhắc đến vấn đề ô nhiễm thủy ngân trong việc khai thác vàng hay ô nhiễm ôxít lưu huỳnh trong việc khai thác đồng. Cần gấp rút tính toán việc sử dụng không gian môi trường trên khắp thế giới để làm lắng cặn khí đã tích tụ suốt hai thế kỷ qua và đã tạo ra một tình trạng đang ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Sự nóng lên do tiêu thụ quá lớn ở một số nước giàu gây nên những hậu quả trên những vùng nghèo nhất thế giới, đặc biệt là Châu Phi, nơi sự gia tăng nhiệt độ, cùng với hạn hán đang tàn phá các trang trại. Cũng có sự thiệt hại do xuất khẩu chất thải rắn và các chất lỏng độc hại sang các nước đang phát triển, thiệt hại do ô nhiễm từ các công ty đang hoạt động ở các nước kém phát triển theo cách mà họ không bao giờ dám làm tại quê hương của họ, ở những quốc gia mà họ gia tăng nguồn tư bản: “Chúng tôi lưu ý các doanh nghiệp hoạt động theo cách này là các công ty đa quốc gia. Họ làm ở đây điều mà họ không bao giờ có thể làm ở những nước phát triển hoặc những nơi được gọi là thế giới thứ nhất. Nói chung, sau khi dừng hoạt động và rút lui, họ để lại phía sau những khoản nợ nhân loại và môi trường lớn như nạn thất nghiệp, các thị trấn bỏ hoang, sự cạn kiệt nguồn dự trữ thiên nhiên, nạn phá rừng, sự nghèo nàn về nông nghiệp và chăn nuôi tại địa phương, những hố trống, đồi trọc, những con sông ô nhiễm và thật nhiều công việc xã hội không còn duy trì được nữa”.[30]
52. Nợ nước ngoài của các nước nghèo đã trở thành một cách để kiểm soát, tuy nhiên món nợ môi sinh lại không liên quan trong trường hợp này. Bằng nhiều cách khác nhau, các nước đang phát triển, nơi còn đa số các nguồn dự trữ sinh quyển, tiếp tục cung cấp sự thịnh vượng cho những quốc gia giàu có hơn bằng hiện tại và tương lai của chính họ. Đất đai của các nước nghèo phía nam dồi dào và đa số chưa bị ô nhiễm, nhưng họ chưa tiếp cận được với quyền sở hữu hàng hoá và nguồn tài nguyên nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu thì đã bị ngăn chặn bởi một hệ thống các mối quan hệ và quyền sở hữu thương mại bất công về mặt cơ cấu. Các nước phát triển cần phải trợ giúp trả khoản nợ này bằng việc giới hạn tiêu thụ nguồn năng lượng không tái tạo được và bằng việc trợ giúp những nước nghèo hơn để cổ võ những chính sách và chương trình phát triển bền vững. Các khu vực và các nước nghèo không có khả năng áp dụng những mô hình mới trong việc giảm thiểu tác động môi trường vì họ thiếu trầm trọng nguồn tiền để phát triển những quy trình cần thiết và trang trải các chi phí. Chúng ta ý thức rằng liên quan đến biến đổi khí hậu, có những trách nhiệm khác nhau. Như Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã nói, cần chú ý nhiều hơn đến “nhu cầu của người nghèo, người yếu thế và những người bị tổn thương, trong một cuộc đấu tranh thường bị áp đặt bởi lợi ích của nhóm có quyền lực hơn”.[31] Chúng ta cần phải củng cố niềm xác tín rằng chúng ta là một gia đình nhân loại duy nhất. Không có biên giới hay rào cản, về chính trị hay xã hội, không còn chỗ cho sự vô cảm toàn cầu để chúng ta có thể ẩn nấp phía sau.
VI. PHẢN ỨNG YẾU ỚT
53. Những tình trạng này đã làm cho người chị trái đất, cùng với tất cả những thứ bị bỏ rơi trên thế giới của chúng ta than khóc, khẩn xin chúng ta hãy thay đổi hành động. Chưa bao giờ chúng ta lại làm tổn thương nặng nề và đối xử tệ hại với ngôi nhà chung của chúng ta như trong suốt hai trăm năm qua. Chúng ta được mời gọi trở thành những khí cụ của Thiên Chúa là Cha chúng ta, để hành tinh của chúng ta có thể được như Ngài mong muốn khi tạo dựng và đáp trả lại kế hoạch của Ngài cho hoà bình, vẻ đẹp và sự toàn vẹn. Vấn đề là chúng ta vẫn thiếu nền văn hoá thích hợp để đối diện với cơn khủng hoảng này. Chúng ta thiếu sự lãnh đạo có khả năng vạch ra những con đường mới, đáp ứng những nhu cầu hiện tại với sự quan tâm đến tất cả và không thành kiến đối với các thế hệ kế tiếp. Không thể không thiết lập một khung pháp lý có thể vạch ra các ranh giới rõ ràng và bảo vệ các hệ sinh thái; bằng không, các cấu trúc quyền lực mới đặt trên mô hình công nghệ – kinh tế sẽ lấn át không chỉ các thể chế chính trị mà còn cả sự tự do và công lý nữa.
54. Điều đáng chú ý là các đáp trả chính trị quốc tế rất yếu ớt. Sự thất bại của các hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về môi trường cho thấy các thể chế chính trị của chúng ta rõ ràng bị chi phối bởi công nghệ và tài chính. Có quá nhiều lợi ích đặc biệt, các lợi ích kinh tế dễ dàng áp đảo thiện ích chung và bao phủ thông tin để các kế hoạch của riêng họ sẽ không bị ảnh hưởng. Văn Kiện Aparecida kêu gọi rằng “Lợi ích của các nhóm kinh tế loại bỏ cách vô lý các nguồn sự sống không được ưu tiên tiếp cận với các nguồn tài nguyên thiên nhiên”.[32] Sự liên minh giữa kinh tế và công nghệ loại trừ bất cứ thứ gì không liên quan đến các lợi ích tức thời của nó. Kết quả là người ta mong đợi một bài hùng biện giả tạo, các hành vi từ thiện lẻ tẻ và sự quan tâm chiếu lệ đến môi trường, trong khi những nhóm có nỗ lực đúng đắn trong xã hội muốn nói lên sự thay đổi lại bị xem như là một sự phiền toái của những ảo tưởng lãng mạn hay một trở ngại cần phá bỏ.
55. Một số quốc gia đang dần tiến bộ, họ phát triển những cách kiểm soát hiệu quả hơn và đấu tranh chống lại nạn tham nhũng. Người dân nhạy bén hơn về sinh thái, nhưng họ không thành công trong việc thay đổi những thói quen tiêu thụ nguy hại, đáng lẽ phải giảm thì dường như đang gia tăng hơn bao giờ hết. Một thí dụ đơn giản là việc gia tăng sử dụng và tiêu thụ điện cho máy điều hoà. Các thị trường kiếm lợi nhuận tức thời từ việc bán hàng này, đang kích thích sự đòi hỏi ngày càng cao. Người ngoài cuộc nhìn vào thế giới của chúng ta chắc sẽ rất kinh ngạc trước hành vi như thế, có vẻ như chúng ta đang hủy hoại chính bản thân mình.
56. Trong khi đó, các thế lực kinh tế tiếp tục biện minh cho hệ thống toàn cầu hiện nay, ưu tiên cho khuynh hướng đầu cơ và theo đuổi lợi ích tài chính mà không suy xét đến bối cảnh, để mặc cho chúng ảnh hưởng lên phẩm giá con người và môi trường thiên nhiên. Ở đây chúng ta thấy suy thoái môi trường, con người và đạo đức gắn liền với nhau thế nào. Nhiều người cho rằng họ không làm gì sai trái, vì những phân tâm liên tục làm lu mờ ý thức của chúng ta về thế giới thực sự giới hạn và hữu hạn. Kết quả là, “bất cứ điều gì mỏng manh, giống như môi trường, đều không có khả năng tự vệ trước những lợi ích của một thị trường được sùng bái, nó trở thành quy luật tuyệt đối”.[33]
57. Có thể dự đoán rằng, một khi những nguồn tài nguyên nhất định bị cạn kiệt, cảnh tượng sẽ được đặt ra cho các cuộc chiến mới, mặc dù dưới chiêu bài của những tuyên bố cao cả. Chiến tranh luôn luôn gây ra sự nguy hại nghiêm trọng đối với môi trường và sự phong phú văn hoá của các dân tộc, những mối nguy sẽ càng kinh khủng khi người ta xét đến các loại vũ khí hạt nhân và các vũ khí sinh học. “Bất chấp những thoả thuận quốc tế đang ngăn cấm chiến tranh hoá học, vi sinh và sinh học, sự thật các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm vẫn tiếp tục phát triển những loại vũ khí tấn công mới có khả năng làm biến đổi sự quân bình của thiên nhiên”.[34] Các nhà chính trị phải lưu tâm hơn nữa để dự đoán những mâu thuẫn mới và giải quyết những căn nguyên của nó. Những lợi ích tài chính mạnh mẽ lại cho thấy sự tồn tại của hoạt động này, và các kế hoạch chính trị có khuynh hướng thiếu chiều rộng của tầm nhìn. Tại sao ngày nay người ta muốn duy trì một thứ quyền lực sẽ được nhắc đến trong tương lai là không có khả năng can thiệp khi cần thiết phải hành động?
58. Ở một số quốc gia, có những ví dụ tích cực về sự cải thiện môi trường: các con sông bị ô nhiễm từ nhiều thập kỷ được làm sạch; những cánh rừng bản địa được khôi phục; các phong cảnh được làm đẹp hơn nhờ vào những dự án cải tạo môi trường; những toà nhà đẹp được xây dựng; những tiến bộ được thực hiện trong việc sản xuất năng lượng không gây ô nhiễm và cải tiến giao thông công cộng. Những thành tựu này không giải quyết những vấn đề toàn cầu, nhưng cho thấy rằng những người nam nữ vẫn có thể can thiệp một cách tích cực. Dù chúng ta có nhiều giới hạn, những nghĩa cử của lòng quảng đại, tình liên đới và sự chăm sóc vẫn lớn lên trong chúng ta, vì chúng ta được dựng nên cho tình yêu.
59. Đồng thời, chúng ta có thể nhận thấy sự xuất hiện của một hệ sinh thái giả tạo hay hời hợt để củng cố sự tự mãn và sự liều lĩnh vô tâm. Và như thường xảy ra trong các giai đoạn khủng hoảng sâu là lúc cần đến những quyết định táo bạo, chúng ta bị cám dỗ để nghĩ rằng điều đang xảy ra thì không hoàn toàn rõ ràng. Xét trên bề mặt, ngoài một vài dấu hiệu ô nhiễm và suy thoái rõ ràng, thì mọi thứ trông không có vẻ gì là nghiêm trọng, và hành tinh có thể tiếp diễn như trước đây. Sự ảo tưởng này đóng vai trò như một giấy thông hành để tiếp tục với lối sống, các mô hình sản xuất và tiêu thụ hiện tại của chúng ta. Đây là cách thế mà con người đang lập mưu để nuôi dưỡng những tệ nạn mang tính tự phá huỷ: cố gắng không nhìn thấy, không nhận biết chúng, trì hoãn những quyết định quan trọng và giả vờ như không có gì xảy ra.
VII. CÁC Ý KIẾN KHÁC NHAU
60. Sau cùng, chúng ta cần nhận biết rằng những cách tiếp cận và những dòng tư tưởng khác nhau đã xuất hiện khi suy xét tình hình này cùng những giải pháp khả thi của nó. Một đàng chúng ta thấy có những người nhất quyết giữ lấy huyền thoại của sự tiến bộ và cho rằng vấn đề sinh thái sẽ tự giải quyết cách đơn giản bằng việc áp dụng công nghệ mới và không cần phải có những suy xét mang tính đạo đức hay sự thay đổi sâu sắc nào. Đàng khác lại cho rằng những người nam nữ và tất cả mọi sự can thiệp của họ không gì khác hơn là một mối đe doạ, đang gây nguy hại cho hệ sinh thái toàn cầu, kết quả là phải giảm sự hiện diện của con người trên hành tinh này và cấm tất cả mọi hình thức can thiệp. Các viễn cảnh khả thi tương lai sẽ phải được tạo ra giữa hai cực này, bởi lẽ không chỉ có một con đường đi đến giải pháp. Điều này làm cho một loạt các đề xuất khác nhau nên khả thi, tất cả đều có thể đi vào một cuộc đối thoại với ước muốn đưa ra những giải pháp phát triển toàn diện.
61. Về nhiều vấn đề cụ thể, Hội Thánh không có lý do để đưa ra một ý kiến xác định; Hội Thánh biết rằng cuộc tranh luận chân thực phải được khích lệ giữa các chuyên gia, dựa trên sự tôn trọng những quan điểm khác nhau.
Tuy nhiên chúng ta cần có một cái nhìn thật thẳng thắn vào sự thật là ngôi nhà chung của chúng ta đang rơi vào trong tình trạng hư nát nghiêm trọng. Niềm hy vọng cho chúng ta nhận ra rằng luôn luôn có cách để thoát ra, chúng ta luôn luôn có thể đổi hướng đi, chúng ta luôn luôn có thể làm điều gì đó để giải quyết những vấn đề của chúng ta. Cũng thế, chúng ta có thể nhận biết các dấu hiệu cho thấy mọi thứ đang đi tới đỉnh điểm, bởi tốc độ thay đổi và sự suy thoái nhanh chóng; những dấu hiệu này rõ ràng hơn ở nơi có những thảm hoạ thiên nhiên quy mô lớn cũng như những nơi khủng hoảng tài chính và xã hội, vì các vấn đề của thế giới không thể được phân tích hay giải thích một cách tách biệt. Có những khu vực giờ đây đang ở trong tình trạng nguy cơ cao, gạt sang một bên tất cả những dự báo về ngày tận thế, thì hệ thống thế giới hiện tại chắc chắn không thể bền vững được trên nhiều quan điểm, vì chúng ta đã không còn suy nghĩ về các mục tiêu của hoạt động con người. “Nếu chúng ta có thể nhìn hết được toàn bộ các khu vực của hành tinh, chúng ta sẽ ngay lập tức nhận thấy nhân loại đang làm thất vọng những mong đợi của Thiên Chúa”.[35]
CHƯƠNG HAI
TIN MỪNG VỀ SÁNG TẠO
62. Tại sao văn kiện này được ngỏ với tất cả mọi người thiện chí, lại bao gồm một chương liên quan đến những niềm xác tín của các tín hữu? Tôi ý thức rất rõ rằng trong các lãnh vực chính trị và triết học có những người kiên quyết khước từ ý tưởng về Đấng Tạo Hóa, hoặc coi điều đó là lỗi thời, và kết quả là bác bỏ cách vô lý sự phong phú mà các tôn giáo có thể đóng góp cho một nền sinh thái học toàn diện và cho sự phát triển toàn vẹn của nhân loại. Những người khác thì coi các tôn giáo chỉ như là một nền văn hoá phụ phải chịu đựng. Tuy nhiên, khoa học và tôn giáo, cùng với những cách tiếp cận nhất định của mình đối với sự hiểu biết về thực tại, có thể bước vào một cuộc đối thoại nghiêm túc sinh hoa trái cho cả hai.
Bài này đã được xem 1021 lần!