THÔNG ĐIỆP VỀ VIỆC CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG CỦA CHÚNG TA – LAUDATO SI’

I. ÁNH SÁNG DO ĐỨC TIN MANG LẠI

63. Trước sự phức tạp của cuộc khủng hoảng sinh thái và vô số nguyên nhân của nó, chúng ta cần nhận thức rằng các giải pháp sẽ không phát xuất chỉ từ một cách giải thích và biến đổi thực tại. Phải có sự tôn trọng đối với những sự phong phú về văn hoá khác nhau của các dân tộc, nghệ thuật và thi phú, đời sống nội tâm và linh đạo của các dân tộc. Nếu chúng ta thực sự quan tâm đến việc phát triển một hệ sinh thái có khả năng khắc phục sự huỷ hoại mà chúng ta đã gây ra, thì không một ngành khoa học nào và không một hình thức khôn ngoan nào có thể bị loại trừ, bao gồm cả tôn giáo và ngôn ngữ đặc trưng của nó. Hội Thánh Công giáo mở ra cho cuộc đối thoại với tư tưởng triết học; điều này giúp cho Hội Thánh tạo ra những tổng hợp khác nhau giữa đức tin và lý trí. Sự phát triển của học thuyết xã hội của Hội Thánh đại diện cho một sự tổng hợp như thế khi xét đến các vấn đề xã hội; giáo huấn này được mời gọi để trở nên phong phú hơn bằng việc mang lấy những thách đố mới.

64. Hơn thế nữa, dù Thông điệp này đón nhận việc đối thoại với mọi người để cùng nhau tìm kiếm những con đường giải thoát, tôi vẫn muốn ngay từ đầu cho thấy những xác tín có thể mang lại cho các Kitô hữu, và một số những người thuộc niềm tin khác nữa, động lực mạnh mẽ để chăm sóc thiên nhiên và những người yếu đuối nhất trong số những anh chị em của chúng ta. Nếu được làm người là một sự thật thúc đẩy người ta chăm sóc môi trường trong đó họ là một thành phần, thì đến lượt mình các Kitô hữu “càng ý thức hơn trách nhiệm của họ với công trình sáng tạo, nghĩa vụ đối với thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa, là thành phần thiết yếu của đức tin”.[36] Thật tốt cho nhân loại và thế giới đại đồng khi chúng ta là các tín hữu nhận thức rõ hơn về những dấn thân sinh thái phát sinh từ xác tín của chúng ta. 

II. SỰ KHÔN NGOAN CỦA TRÌNH THUẬT KINH THÁNH 

65. Không cần nhắc lại toàn bộ nền thần học sáng tạo, chúng ta có thể tìm xem những trình thuật Kinh Thánh nói gì về mối tương quan giữa con người với thế giới. Trong cuộc tạo dựng đầu tiên trong sách Sáng Thế, kế hoạch của Thiên Chúa đã có việc tạo dựng con người. Sau khi tạo dựng nên người nam và người nữ, “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Kinh Thánh dạy mọi người nam và nữ được dựng nên vì tình yêu và được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26). Điều này cho chúng ta thấy phẩm giá lớn lao của mỗi con người, “vốn không chỉ là một cái gì đó, nhưng là một ai đó. Con người có khả năng tự hiểu biết, tự sở hữu, tự trao ban chính mình và đi vào sự hiệp thông với những người khác”.[37] Thánh Gioan Phaolô II khẳng định tình yêu đặc biệt của Đấng Tạo Hóa cho mỗi con người “đã trao ban cho họ một phẩm giá vô biên”.[38] Những người đang dấn thân để bảo vệ phẩm giá con người có thể tìm thấy trong đức tin Kitô giáo những lý do sâu xa nhất cho sự dấn thân này. Thật tuyệt vời biết bao khi chắc chắn rằng mỗi sự sống con người đều không bị trôi dạt trong mớ hỗn mang vô vọng, trong một thế giới được điều khiển bởi cơ hội thuần tuý hay những vòng luẩn quẩn tái diễn bất tận! Đấng Tạo Hóa nói với mỗi người chúng ta: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5). Chúng ta được thụ thai trong trái tim của Thiên Chúa, và vì lý do này mà “mỗi người chúng ta là kết quả trong ý định của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được mong đợi, mỗi người chúng ta được yêu thương và mỗi người chúng ta đều cần thiết”.[39]

66. Các trình thuật sáng tạo trong sách Sáng Thế chứa đựng những giáo huấn sâu sắc về hiện hữu con người và thực tại lịch sử của nó, theo ngôn ngữ biểu tượng và tường thuật thời bấy giờ. Những trình thuật này gợi ý về cuộc sống con người dựa trên ba mối tương quan căn bản có liên hệ mật thiết với nhau: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân và tương quan với trái đất. Theo Kinh Thánh, ba mối tương quan thiết yếu này đã bị phá vỡ, cả bên ngoài lẫn bên trong chúng ta. Sự tan vỡ này chính là tội lỗi. Sự hoà hợp giữa Đấng Tạo Hóa, nhân loại và tạo thành đã bị đoạn tuyệt do con người muốn chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa và khước từ nhìn nhận những giới hạn thụ tạo của mình. Điều này còn bóp méo lệnh truyền “làm bá chủ” toàn thể trái đất (x. St 1,28), lệnh truyền “canh tác và gìn giữ trái đất” (St 2,15). Hậu quả là mối tương quan hoà hợp nguyên thuỷ giữa con người và thiên nhiên trở nên xung đột (x. St 3,17-19). Sự hoà hợp mà thánh Phanxicô Assisi kinh nghiệm được với tất cả mọi loài thụ tạo được xem như sự chữa lành cho nỗi đoạn tuyệt ấy. Thánh Bônaventura cho rằng thông qua sự hoà giải hoàn vũ với mọi loài thụ tạo, thánh Phanxicô một cách nào đó đã trở lại tình trạng vô tội nguyên thuỷ.[40] Đây là tiếng than khóc vang xa xuất phát từ hoàn cảnh của chúng ta ngày nay, nơi mà tội lỗi tỏ hiện trong tất cả sức mạnh huỷ diệt của chiến tranh, các hình thức bạo lực và lạm dụng, bỏ rơi những người yếu đuối và tấn công vào thiên nhiên.

67. Chúng ta không phải là Thiên Chúa. Trái đất đã có trước chúng ta và đã được ban tặng cho chúng ta. Điều này giúp chúng ta đáp trả vấn nạn mà theo tư tưởng Do Thái – Kitô Giáo, trên nền tảng của trình thuật Sáng Thế về việc con người “thống trị” trên toàn trái đất (x. St 1,28), đã cổ võ một sự khai thác thiên nhiên không kiềm chế qua việc vẽ nên hình ảnh con người bị thiên nhiên thống trị và huỷ diệt.
Cách giải thích Kinh Thánh như thế không đúng với cách hiểu của Hội Thánh. Cho dù đôi khi các Kitô hữu giải thích Kinh Thánh không đúng, nhưng ngày nay chúng ta phải mạnh mẽ phủ nhận quan niệm này: hữu thể của chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được trao quyền thống trị trên toàn cõi đất, và từ mệnh lệnh này, người ta có thể biện minh cho một sự thống trị tuyệt đối trên các loài thụ tạo khác. Các bản văn Kinh Thánh phải được đọc trong ngữ cảnh của nó, với một sự tường giải thích hợp, nhận biết rằng các bản văn này nói với chúng ta hãy “canh tác và gìn giữ” khu vườn của thế giới (x. St 2,15). “Canh tác” có ý là “trồng trọt”, cày bừa hay làm việc, trong khi “giữ gìn” có nghĩa là chăm sóc, bảo vệ, giám sát và duy trì. Điều này hàm chứa một mối tương quan có trách nhiệm hỗ tương giữa con người và thiên nhiên. Mỗi cộng đồng có thể lấy từ sự rộng lượng của trái đất bất cứ điều gì cần thiết cho sự tồn tại của mình, nhưng cộng đồng ấy cũng có nghĩa vụ bảo vệ trái đất và đảm bảo sự dồi dào phong phú của trái đất cho các thế hệ kế tiếp. “Chúa làm chủ trái đất” (Tv 24,1); “trái đất và muôn loài trong đó” (Đnl 10,4) đều thuộc về Ngài. Do đó Thiên Chúa từ khước mọi tuyên bố sở hữu tuyệt đối: “Đất thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (Lv 25,23).

68. Trách nhiệm với trái đất do Thiên Chúa tạo nên cũng có nghĩa là con người, được phú bẩm sự thông minh, phải tôn trọng các quy luật của tự nhiên và thế quân bình mỏng manh tồn tại giữa các loài thụ tạo của thế giới này, vì “Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành; Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn thuở, ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua” (Tv 148,5b-6). Các lề luật có trong Kinh Thánh đều đào sâu các mối tương quan, không chỉ giữa các cá nhân mà còn với các thực thể sống khác. “Khi anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã trên đường, thì đừng bỏ mặc làm ngơ, nhưng phải giúp người anh em đỡ chúng dậy… Nếu trên đường đi, anh (em) gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất, trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con” (Đnl 4,6). Cũng theo những dòng này, thì việc nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy không chỉ có ý dành cho con người, mà còn “để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 23,12). Rõ ràng, Kinh Thánh không có chỗ cho chủ nghĩa nhân chủng tàn bạo không quan tâm gì đến các loài thụ sinh khác.

69. Cùng với nghĩa vụ biết sử dụng các tài nguyên của trái đất một cách có trách nhiệm, chúng ta được mời gọi nhận biết rằng những loài thụ sinh khác đều có một giá trị riêng trong mắt Thiên Chúa: “bằng việc hiện hữu thuần tuý của chúng, chúng chúc tụng Ngài và làm vinh danh Ngài”,[41] và thực vậy, “Thiên Chúa hân hoan trong mọi việc Ngài làm” (Tv 104,31). Do đặc ân có phẩm giá độc nhất và món quà của trí thông minh, chúng ta được mời gọi tôn trọng tạo thành và các quy luật của nó, bởi “Ðức Chúa dùng khôn ngoan đặt nền cho trái đất” (Cn 3,19). Trong thời đại của chúng ta, Hội Thánh không có ý nói rằng các loài thụ tạo khác hoàn toàn thuộc về thiện ích của con người, như thể chúng không tự có giá trị gì và có thể bị đối xử như chúng ta muốn. Hội Đồng Giám Mục Đức đã dạy: nơi nào các loài thụ tạo khác được quan tâm, ở nơi ấy “chúng ta có thể nói về sự ưu tiên của hiện hữu vượt trên cái hữu dụng”.[42] Giáo lý rõ ràng và mạnh mẽ phê bình một chủ nghĩa nhân chủng tàn bạo lệch lạc: “Mỗi loài thụ tạo sở hữu một sự tốt lành và hoàn hảo của riêng nó… Mỗi loài thụ tạo khác nhau, như đã được định trong hữu thể của nó, phản chiếu một tia khôn ngoan và tốt lành vô biên của Thiên Chúa theo cách của nó. Do đó, con người phải tôn trọng sự tốt lành riêng biệt của mọi loài thụ tạo, xa tránh việc sử dụng cách vô trật tự mọi thứ”.[43]

70. Trong câu chuyện của Cain và Aben, chúng ta thấy sự ghen tị dẫn Cain đến cách hành xử bất công cuối cùng chống lại em mình thế nào, tiếp theo là đoạn tuyệt mối tương quan giữa Cain và Thiên Chúa, giữa Cain với trái đất là nơi Cain bị trục xuất. Điều này được thấy rõ trong cuộc trao đổi bi đát giữa Thiên Chúa và Cain. Thiên Chúa hỏi: “Aben em ngươi đâu?” Cain trả lời rằng anh ta không biết, và Thiên Chúa tiếp tục: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra” (St 4,9-11). Coi thường nghĩa vụ phải vun trồng và duy trì mối tương quan đúng đắn với người thân cận của tôi, những người mà tôi có trách nhiệm canh giữ và chăm sóc, sẽ phá huỷ mối tương quan của tôi với chính bản thân, với người khác, với Thiên Chúa và với trái đất. Khi tất cả các mối tương quan này bị phớt lờ, khi công lý không còn ngự trị trên mặt đất nữa, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng lúc đó sự sống tự nó đang bị đe doạ. Chúng ta thấy điều này trong câu chuyện ông Nôe, khi Thiên Chúa đe doạ sẽ xoá bỏ nhân loại vì con người không chịu chu toàn những đòi hỏi của công lý và hoà bình: “Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực” (St 6,13). Những câu chuyện xưa này, đầy tính biểu tượng, làm chứng cho niềm xác tín chúng ta chia sẻ hôm nay, rằng mọi sự có mối liên hệ qua lại, việc chăm sóc đích thực đời sống của chúng ta và các mối tương quan của chúng ta với thiên nhiên không thể tách lìa khỏi tình huynh đệ, công lý và sự trung tín với người khác.

71. Mặc dù “sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất” (St 6,5) và Thiên Chúa “hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 6,6), tuy nhiên, qua ông Nôe, một người vô tội và ngay chính, Thiên Chúa quyết định mở ra một con đường cứu độ. Bằng cách này Người đã ban cho nhân loại cơ hội một khởi đầu mới. Điều cần là một người tốt lành để khôi phục niềm hy vọng! Truyền thống Kinh Thánh cho thấy sự đổi mới này đi kèm với việc khôi phục và tôn trọng các nhịp điệu đã được bàn tay của Đấng Tạo Hóa khắc ghi trong thiên nhiên. Chúng ta thấy điều này, ví dụ như trong luật Sabat. Vào ngày thứ Bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi không làm việc. Ngài đã truyền lệnh cho dân Israel hãy dành một ngày thứ Bảy như là ngày nghỉ ngơi, ngày Sabat, (x.St 2,2-3; Xh 16,23; 20,10). Tương tự, cứ mỗi bảy năm, sẽ là một năm Sabat được đặt ra cho người Israel, một sự nghỉ ngơi hoàn toàn dành cho đất đai (x. Lv 25,1-4), khi ấy việc gieo giống bị cấm và người ta chỉ gặt hái cái gì thiết yếu để sống và để nuôi gia đình (x. Lv 25,4-6). Sau cùng, sau bảy tuần của các năm, có nghĩa là bốn mươi chín năm, Năm Thánh được cử hành như là một năm để tha thứ chung và “sự tự do trên toàn cõi đất cho hết mọi cư dân” (x. Lv 25,10). Luật này xuất hiện như một nỗ lực để đảm bảo sự quân bình và công bằng trong các mối tương quan của họ với người khác và với đất đai, nơi họ sống và làm việc. Đồng thời, đó cũng là ý thức về quà tặng của trái đất với các hoa trái của nó thuộc về mọi người. Những ai canh tác và gìn giữ đất đai buộc phải chia sẻ hoa trái, đặc biệt là với người nghèo, với các bà goá, các cô nhi và ngoại kiều ở ngay giữa họ: “Khi các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. Vườn nho (các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi không được nhặt: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều” (Lv 19,9-10).

72. Các Thánh Vịnh thường xuyên dạy chúng ta biết chúc tụng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, “Đấng trải mặt đất này trên làn nước bao la, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,6). Các Thánh Vịnh cũng mời gọi các loài thụ tạo khác hoà cùng chúng ta trong lời ca tụng này: “Ca tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt, ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi. Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu trùng cao vút, cả khối nước phía trên bầu trời. Nào ca tụng thánh danh Đức Chúa, vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành” (Tv 148,3-5). Chúng ta không chỉ tồn tại nhờ quyền năng của Thiên Chúa; chúng ta còn sống với Ngài và bên cạnh Ngài. Đó là lý do vì sao chúng ta tôn thờ Ngài.

73. Các bản văn của các ngôn sứ mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm sức mạnh đổi mới trong những lúc thử thách bằng việc chiêm ngắm Thiên Chúa toàn năng, Đấng dựng nên vũ hoàn. Quyền năng vô biên của Thiên Chúa không làm chúng ta xa cách sự dịu dàng phụ tử của Ngài, vì nơi Ngài lòng dịu hiền và sức mạnh liên kết với nhau. Thực ra, tất cả mọi nền linh đạo có ý nghĩa đều hòa quyện cả tình yêu đón nhận và sự thờ phượng thánh, tin tưởng vào Thiên Chúa vì năng quyền vô biên của Ngài. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa là Đấng giải thoát và cứu chuộc cùng là một Thiên Chúa tạo nên vũ trụ, hai đường lối hành động thánh này liên hệ gần gũi và không thể tách rời: “Lạy Đức Chúa, Chúa Thượng của con, này Ngài đã tạo thành trời đất bằng sức mạnh vĩ đại và cánh tay uy quyền của Ngài. Không có gì mà Ngài không làm được!… Ngài đã dùng dấu lạ điềm thiêng, đã giương bàn tay mạnh mẽ và cánh tay uy quyền mà đưa dân Ngài là Israel ra khỏi đất Ai cập” (Gr 32,17.21). “Đức Chúa là Thiên Chúa vĩnh cửu, là Đấng sáng tạo toàn cõi đất. Người không mệt mỏi, chẳng nhọc nhằn, trí thông minh của Người khôn dò thấu. Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi, kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng” (Is 40,28b-29).

74. Kinh nghiệm về cuộc lưu đày ở Babylon khơi mào một cuộc khủng hoảng thiêng liêng đưa tới một niềm tin sâu đậm hơn vào Thiên Chúa. Bấy giờ quyền năng sáng tạo của Người được tôn vinh trong việc giáo huấn người dân biết lấy lại niềm hy vọng ngay giữa tình trạng khó khăn tồi tệ của họ. Nhiều thế kỷ sau, trong một thời kỳ thử thách và bách hại khác, khi Đế chế La Mã tìm cách áp đặt một sự thống trị tuyệt đối, người tín hữu lại một lần nữa tìm thấy sự an ủi và niềm hy vọng trong một niềm tin lớn mạnh vào Thiên Chúa toàn năng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, sự nghiệp Ngài thật lớn lao kỳ diệu! Lạy Ðức Vua trị vì muôn nước, đường lối Ngài quả chân thật công minh!” (Kh 15,3). Thiên Chúa, Đấng tạo nên vũ trụ từ hư không cũng có thể can thiệp vào trong thế giới này và vượt thắng mọi hình thức sự dữ. Bất công không phải là bất khả chiến bại.

Bài này đã được xem 1034 lần!

Pages ( 5 of 17 ): <1 ... 34 5 67 ... 17>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]