91. Một tâm tình kết hiệp thâm sâu với các hữu thể khác trong thiên nhiên không thể là một tâm tình chân chính nếu đồng thời trong tâm hồn không có sự dịu dàng, cảm thông và quan tâm đến con người. Rõ ràng là bất nhất khi đấu tranh chống lại nạn buôn bán các chủng loại đang gặp nguy cơ nhưng lại hoàn toàn thờ ơ với nạn buôn bán người, không quan tâm gì đến người nghèo, hoặc hành động để huỷ diệt một đồng loại khác bị coi là không cần nữa. Điều này gây nguy hại đến ý nghĩa của cuộc đấu tranh vì môi trường. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài ca chúc tụng Thiên Chúa về vạn vật của Thánh Phanxicô có đoạn: “Chúc tụng Thiên Chúa của con, vì những người sẵn sàng tha thứ bằng tình yêu của Ngài”. Mọi sự đều nối kết. Do đó quan tâm đến môi trường cần phải được hội nhập với tình yêu chân thành dành cho anh em đồng loại và một sự dấn thân vững vàng để giải quyết các vấn đề của xã hội.
92. Hơn nữa, khi tâm hồn chúng ta mở ra cách đúng đắn cho sự hiệp thông hoàn vũ, cảm thức về tình huynh đệ này không loại trừ điều gì và bất cứ một ai. Sự thờ ơ hay sự tàn bạo của chúng ta đối với các thụ tạo của thế giới này sớm muộn gì cũng ảnh hưởng đến cách hành xử của chúng ta với những anh em đồng loại khác. Chúng ta chỉ có một trái tim, và cùng một nỗi khốn khổ làm chúng ta đối xử tệ bạc với một động vật không bao lâu sẽ thể hiện trong cách đối xử của chúng ta với người khác. Mọi hành vi tàn bạo hướng đến bất kì một thụ tạo nào đều “trái với phẩm giá con người”.[69] Thật khó chấp nhận rằng chúng ta đang yêu thương một cách trọn vẹn nếu chúng ta coi thường bất kì một khía cạnh nào của thực tại: “Hoà bình, công lý và sự bảo tồn tạo thành là ba chủ đề tuyệt đối liên hệ với nhau, không thể tách lìa và suy xét cách cá biệt mà không một lần nữa rơi vào chủ nghĩa giản lược”.[70] Mọi sự đều có liên hệ, và chúng ta là những con người hiệp nhất với nhau như anh chị em trên cuộc lữ hành kỳ diệu, đan dệt với nhau bằng tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi thụ tạo và tình yêu ấy cũng hiệp nhất chúng ta trong tình cảm trìu mến với anh mặt trời, chị mặt trăng, anh sông và mẹ đất.
VI. CỦA CẢI ĐỂ MƯU ÍCH CHO MỌI NGƯỜI
93. Dù là người có niềm tin hay không, ngày nay chúng ta đều đồng ý với nhau rằng trái đất tự bản chất là một tài sản thừa kế chung, hoa trái của nó phải dành cho lợi ích của mọi người. Đối với các tín hữu, điều này còn là lòng trung thành với Đấng Tạo Hóa, vì Thiên Chúa dựng nên thế giới cho mọi người. Do đó, mọi cách tiếp cận sinh thái cần phải phối hợp với góc độ xã hội, biết suy xét đến các quyền lợi nền tảng của người nghèo và người xấu số. Nguyên tắc sở hữu tư nhân lệ thuộc vào mục tiêu phổ quát, và do đó mọi người đều có quyền sử dụng, là quy tắc vàng của đạo đức xã hội, là “nguyên tắc đầu tiên của toàn bộ trật tự đạo đức và xã hội”.[71] Truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân là tuyệt đối hay bất khả xâm phạm, và đã từng nhấn mạnh đến mục đích xã hội của tất cả mọi hình thức sở hữu tư nhân. Thánh Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tái khẳng định giáo huấn này: “Thiên Chúa ban tặng trái đất cho toàn thể nhân loại vì sự tồn tại của tất cả các thành viên, không loại trừ hay ưu tiên cho bất kì ai”.[72] Đây là những lời mạnh mẽ. Ngài nhấn mạnh rằng “một kiểu phát triển không tôn trọng và cổ võ nhân quyền – cá nhân và xã hội, kinh tế và chính trị, bao gồm quyền của các quốc gia và dân tộc – sẽ thực sự không xứng đáng đối với con người”.[73] Ngài giải thích: “Hội Thánh bảo vệ quyền hợp pháp đối với tài sản tư nhân, nhưng Hội Thánh cũng dạy rằng tất cả mọi tài sản riêng đều là một sự thế chấp xã hội, để mọi của cải có thể phục vụ cho mục đích phổ quát mà Thiên Chúa trao phó cho chúng”.[74] Ngài còn nói tiếp: “Thật không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa khi quà tặng này chỉ sử dụng cho lợi ích riêng của một số người”.[75] Nó mời gọi một sự chất vấn nghiêm túc về thói quen bất công của một bộ phận nhân loại.[76]
94. Người giàu và người nghèo có cùng phẩm giá như nhau, vì “cả hai đều được Đức Chúa tạo dựng” (Cn 22,2).“Sang hay hèn đều do Người tạo tác” (Kn 6,7), và “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,45). Kết quả thực tế của điều này được Hội đồng Giám mục Paraguay nêu lên: “Mỗi người nông dân đều có quyền tự nhiên được sở hữu một lượng đất đai hợp lý để có thể tạo lập nhà cửa, làm việc để nuôi sống gia đình và có một cuộc sống an toàn. Quyền này phải được đảm bảo để thi hành thực sự chứ không ảo tưởng. Như vậy có nghĩa là ngoài việc làm chủ tài sản, người nông dân phải được tiếp cận với các phương tiện giáo dục kĩ thuật, tín dụng, bảo hiểm và thị trường”.[77]
95. Môi trường thiên nhiên là một thiện ích chung, là gia sản của toàn thể nhân loại và trách nhiệm của mọi người. Nếu chúng ta có riêng vài thứ, thì chỉ là để quản lý cho thiện ích chung của mọi người. Nếu không làm thế, chúng ta chất nặng lên lương tâm của chúng ta bằng sự khước từ hiện hữu của người khác. Đó là lý do Hội đồng Giám mục New Zealand đặt vấn đề giới răn “Ngươi không được giết người” có ý nghĩa gì khi “hai mươi phần trăm dân số thế giới lại tiêu thụ các nguồn tài nguyên nhiều đến mức cướp đi điều cần để tồn tại của các quốc gia nghèo và các thế hệ tương lai”.[78]
VII. CÁI NHÌN CỦA CHÚA GIÊSU
96. Chúa Giêsu nhắc lại niềm tin Kinh Thánh vào Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, ngài nhấn mạnh một chân lý nền tảng: Thiên Chúa là Cha (x. Mt 11,25). Trong khi trò chuyện với các môn đệ, Chúa Giêsu mời gọi họ nhận biết mối tương quan phụ tử của Thiên Chúa với hết mọi loài thụ tạo. Ngài nhắc đến chúng với lòng trìu mến cảm thông vì mỗi loài đều quan trọng trong mắt của Thiên Chúa: “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,6). “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng” (Mt 6,26).
97. Chúa Giêsu mời gọi mọi người chú ý đến vẻ đẹp vốn có trong thế giới này vì chính Ngài không ngừng chạm đến thiên nhiên, chú ý đến nó cách trìu mến và thán phục. Khi đi ngang qua một vùng đất, Ngài thường dừng lại để chiêm ngắm vẻ đẹp được Cha gieo trồng và mời gọi các môn đệ tiếp nhận một thông điệp thánh thiêng trong mọi sự: “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (Ga 4,35). “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất” (Mt 13,31-32).
98. Chúa Giêsu sống hoà hợp trọn vẹn với công trình sáng tạo, và những người khác phải kinh ngạc: “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mt 8,27). Chúa Giêsu không mang dáng vẻ của một nhà khổ tu sống lìa xa khỏi thế giới, cũng không phải là kẻ thù của những thú vui trên đời. Ngài nói: “Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi’” (Mt 11,19). Ngài loại bỏ những triết lý khinh thường thân xác, vật chất và những sự thuộc về thế gian. Tuy nhiên, những chủ thuyết nhị nguyên lệch lạc như thế đã để lại dấu ấn trên một số nhà tư tưởng Kitô giáo trong dòng lịch sử và làm méo mó Tin Mừng. Chúa Giêsu làm việc bằng đôi bàn tay của Ngài, tiếp xúc hằng ngày với vật chất do Thiên Chúa dựng nên để tạo ra hình hài cho các sản phẩm thủ công tỉ mỉ. Thật ngạc nhiên là phần lớn cuộc đời tại thế của Ngài dành cho nhiệm vụ này trong một cuộc sống giản dị, không làm cho người ta ngưỡng mộ: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?” (Mc 6,3). Qua đó, Ngài thánh hoá lao động của con người và ban cho nó một ý nghĩa đặc biệt cho sự phát triển của chúng ta. Như Thánh Gioan Phaolô II dạy: “bằng việc chịu đựng những cực nhọc của công việc trong sự hiệp nhất với Đức Kitô chịu đóng đinh vì chúng ta, con người cộng tác với Con Thiên Chúa để cứu chuộc nhân loại”.[79]
99. Theo sự hiểu biết Kitô giáo về thế giới, định mệnh của tất cả mọi loài thụ tạo được tháp nhập với mầu nhiệm Đức Kitô, ngay từ thuở ban đầu: “vì trong Người, muôn vật được tạo thành” (Cl 1,16).[80] Phần lời tựa của Tin Mừng Gioan (Ga 1,1-18) mạc khải công việc sáng tạo của Đức Kitô như là Ngôi Lời (Logos). Nhưng sau đó, lời tựa ấy bất ngờ nói cùng Lời ấy “đã trở thành xác phàm” (Ga 1,14). Một Ngôi trong Ba Ngôi đi vào trong vũ trụ được tạo dựng, nhưng đặc biệt là ngang qua việc nhập thể, mầu nhiệm Đức Kitô đang hoạt động theo một cách kín ẩn trong toàn thể thế giới tự nhiên, mà không tác động đến tính tự chủ của nó.
100. Kinh Thánh Tân Ước không chỉ nói cho chúng ta về Chúa Giêsu trần thế, mối tương quan cụ thể và yêu thương của Ngài với thế giới. Kinh Thánh còn cho thấy Ngài đã sống lại và vinh hiển, Ngài hiện diện trong mọi thụ tạo với Quyền Chủ Tể vũ hoàn: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá” (Cl 1,19-20). Điều này hướng tầm nhìn của chúng ta đến tận cùng của thời gian, khi Người Con sẽ trao hết mọi sự cho Chúa Cha, để “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Các loài thụ tạo của thế giới này không còn xuất hiện trước mắt chúng ta dưới dáng vẻ thuần tuý tự nhiên nữa, vì Đấng phục sinh sẽ bao phủ chúng cách nhiệm mầu và hướng chúng đến sự viên mãn tận cùng. Những bông hoa ngoài đồng và những cánh chim trời mà Ngài đã chiêm ngắm giờ đây được mặc lấy sự hiện diện đầy vẻ uy linh của Ngài.
CHƯƠNG BA
NGUỒN GỐC NHÂN BẢN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG SINH THÁI
101. Có lẽ không hữu ích nếu chỉ mô tả các triệu chứng bên ngoài mà không nhận biết nguồn gốc nhân bản của cuộc khủng hoảng sinh thái. Có một cách hiểu về đời sống và hoạt động của con người lệch lạc đến mức làm đổ nát nghiêm trọng thế giới xung quanh. Chúng ta có nên dừng lại và suy xét điều này không? Ở phần này, tôi đề nghị chúng ta tập trung vào các mô hình kĩ trị* đang chiếm ưu thế, vị trí của con người và hành động của con người trong thế giới.
I. CÔNG NGHỆ: SỰ SÁNG TẠO VÀ SỨC MẠNH
102. Nhân loại đã bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó trình độ chuyên môn kĩ thuật đưa chúng ta đến một bước ngoặt lớn. Chúng ta là những người thừa hưởng của hai thế kỷ với những làn sóng thay đổi lớn lao: động cơ hơi nước, đường sắt, điện tín, điện lực, xe ô tô, máy bay, ngành công nghiệp hoá chất, y học hiện đại, công nghệ thông tin và gần đây hơn là cuộc cách mạng số, người máy, công nghệ sinh học và công nghệ nanô. Vui hưởng những tiến bộ này là đúng và phấn khích với muôn vàn khả năng chúng có thể tiếp tục mở ra trước mắt chúng ta, vì “khoa học và công nghệ là những sản phẩm kì diệu của sự sáng tạo nhân loại Thiên Chúa ban tặng”.[81] Cải tạo thiên nhiên vì những mục đích hữu dụng là tác động của gia đình nhân loại từ thuở ban đầu; chính bản thân công nghệ cũng “thể hiện sự căng thẳng nội tại thôi thúc con người dần dần vượt thắng những giới hạn vật chất”.[82] Công nghệ đã khắc phục vô số những điều xấu gây hại và hạn chế con người. Làm sao chúng ta không cảm thấy biết ơn và trân trọng dành cho sự tiến bộ này, đặc biệt là trong các lãnh vực y khoa, kĩ thuật và truyền thông? Làm sao chúng ta lại không nhận biết công việc của nhiều nhà khoa học và kĩ sư đem lại những giải pháp cho sự phát triển bền vững?
103. Khoa học công nghệ, khi đi đúng hướng, có thể tạo ra những phương tiện quan trọng để cải thiện chất lượng cuộc sống con người, từ những đồ gia dụng hữu ích đến những hệ thống giao thông lớn, cầu đường, toà nhà và những không gian công cộng. Nó cũng có thể tạo ra nghệ thuật và giúp cho người nam nữ bị chìm trong thế giới vật chất “nhảy vọt” vào thế giới của vẻ đẹp. Ai có thể từ chối vẻ đẹp của một chiếc máy bay hay một toà nhà chọc trời? Những tác phẩm nghệ thuật và âm nhạc giá trị giờ đây đang tận dụng những công nghệ mới. Vì thế, trong vẻ đẹp do người dùng phương thế kĩ thuật phát minh ra và trong khi chiêm ngắm vẻ đẹp như thế, một bước nhảy vọt lớn lao xảy ra, đưa tới một sự tròn đầy mà duy nhất chỉ có nơi con người.
104. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng năng lượng nguyên tử, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, tri thức về ADN của chúng ta, và nhiều khả năng khác mà chúng ta đã đạt được, mang lại cho chúng ta sức mạnh to lớn. Cụ thể hơn, chúng mang lại cho những người hiểu biết, nhất là những nguồn lực kinh tế một sự thống trị đáng chú ý trên toàn thể nhân loại và toàn thế giới. Chưa bao giờ con người lại có sức mạnh như thế trên chính mình, nhưng chẳng có gì đảm bảo rằng sức mạnh này sẽ được sử dụng cách khôn ngoan, đặc biệt khi chúng ta suy xét cách thế mà hiện nay nó đang được sử dụng. Chúng ta phải nghĩ đến các loại bom nguyên tử đã bị con người ném xuống vào giữa thế kỷ XX, hoặc hàng loạt công nghệ mà Chủ nghĩa Phát xít và các chế độ độc tài khác đã sử dụng để tiêu diệt hàng triệu người, đó là chưa nói đến sự gia tăng các kho vũ khí giết người sẵn sàng cho cuộc chiến hiện đại. Tất cả sức mạnh này nằm trong đôi tay của ai và liệu nó sẽ kết thúc thế nào? Thật vô cùng nguy hiểm khi một bộ phận nhân loại đang sở hữu sức mạnh này.
105. Có khuynh hướng cho rằng mọi sự gia tăng về quyền lực có nghĩa là “gia tăng sự tiến bộ”, một bước tiến trong “an ninh, hữu dụng, an sinh và sức mạnh;… một sự đồng hoá những giá trị mới vào trong dòng chảy văn hoá”,[83] như thể là thực tại, sự tốt lành và sự thật tự động tuôn trào từ sức mạnh kinh tế và công nghệ. Thực tế là “con người đương thời không được đào tạo để sử dụng tốt quyền lực”,[84] vì sự tiến bộ lớn lao về công nghệ không đi cùng với sự lớn lên về trách nhiệm, các giá trị và lương tâm con người. Mỗi thời đại lại có xu hướng nhận thức hời hợt về những giới hạn của riêng nó. Có thể chúng ta cũng không nắm bắt được hết sức nặng của những thách đố hiện nay. “Nguy cơ con người không sử dụng đúng quyền lực của mình đang tăng từng ngày”; trong thực tế, “quyền lực không bao giờ theo tiêu chuẩn của chọn lựa tự do, nhưng theo tiêu chuẩn tiện nghi hoặc an toàn”.[85] Nhưng con người không hoàn toàn tự chủ. Sự tự do của chúng ta mờ nhạt khi đầu hàng những thế lực mù quáng của sự vô thức, những nhu cầu tức thời, vụ lợi và bạo lực. Theo nghĩa này, chúng ta thật trần trụi và phơi bày ra trước quyền lực ngày càng tăng của chúng ta, nhưng lại thiếu điều cần thiết để kiểm soát nó. Chúng ta có những cơ chế bề ngoài nhất định, nhưng chúng ta không có một nền đạo đức, một nền văn hoá và linh đạo có ý nghĩa đúng đắn có thể đặt ra những giới hạn và dạy cho chúng ta sự giới hạn bản thân cách rõ ràng.
II. TOÀN CẦU HOÁ MÔ HÌNH KĨ TRỊ
106. Vấn đề căn bản thậm chí còn sâu xa hơn: con người đã theo đuổi công nghệ và sự phát triển của nó theo một mô hình không phân biệt và một chiều. Mô hình này tôn vinh quan niệm chủ thể biết sử dụng những quy trình có tính logic và có lý để tiếp cận và kiểm soát trên một đối tượng bên ngoài. Chủ thể này nỗ lực mọi cách để thiết lập phương pháp khoa học và thực nghiệm, mà bản thân nó đã là một kĩ thuật chiếm hữu, làm chủ và biến đổi. Dường như là chủ thể tìm được chính nó trong sự hiện diện của một điều gì đó vô hình, hoàn toàn mở ra cho sự thao tác. Con người nam nữ đã từng can thiệp vào thiên nhiên, nhưng trong một thời gian dài vẫn theo nhịp độ và tôn trọng những khả năng do chúng mang lại. Vấn đề là biết tiếp nhận điều thiên nhiên cho phép, như đón nhận từ chính bàn tay của chúng. Trái lại, bây giờ chúng ta lại đặt bàn tay mình trên mọi sự, cố gắng rút lấy mọi sự có thể từ chúng, trong khi thường xuyên phớt lờ hoặc lãng quên thực tại trước mắt chúng ta. Con người và vật thể vật chất không còn đưa bàn tay thân thiện ra cho nhau nữa; mối quan hệ trở nên đối đầu. Như thế càng dễ chấp nhận ý tưởng về sự tăng trưởng vô biên hoặc vô hạn, là điều rất hấp dẫn đối với các nhà kinh tế, tài chính và các chuyên gia công nghệ. Nó dựa trên sự lừa dối rằng có một nguồn cung cấp vô biên các tài sản của trái đất, và dẫn đến việc hành tinh đang bị vắt cạn vượt quá mọi giới hạn. Thật lầm lạc khi quan niệm rằng “luôn sẵn có một nguồn năng lượng và nguồn tài nguyên vô biên, có thể tái tạo cách nhanh chóng, và những tác động tiêu cực của việc khai thác trật tự thiên nhiên có thể được hoá giải cách dễ dàng”.[86]
Bài này đã được xem 1026 lần!