THÔNG ĐIỆP VỀ VIỆC CHĂM SÓC NGÔI NHÀ CHUNG CỦA CHÚNG TA – LAUDATO SI’

107. Có thể nói rằng nhiều vấn đề của thế giới ngày nay khởi đi từ một khuynh hướng, đôi khi là vô thức, làm cho phương pháp và những mục tiêu của khoa học và công nghệ trở thành mô hình nhận thức khuôn mẫu của nhiều cá nhân và hoạt động xã hội. Những tác động của việc áp đặt này lên toàn bộ thực tại, con người và xã hội, thể hiện trong sự suy thoái môi trường, nhưng đây chỉ là dấu hiệu của chủ nghĩa giản lược đang ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống con người và xã hội. Chúng ta phải chấp nhận rằng những sản phẩm công nghệ không trung dung, vì chúng tạo ra một khuôn khổ sẽ điều kiện hoá lối sống và định hình những khả năng xã hội đi theo dòng chảy do lợi ích của những nhóm thế lực đề ra. Các quyết định có vẻ như hoàn toàn mang tính công cụ thì trong thực tế lại là những quyết định về mô hình xã hội mà chúng ta muốn tạo nên.

108. Ngày nay khó tưởng tượng về ý định cổ võ một mô hình văn hoá khác biệt và áp dụng công nghệ như công cụ thuần tuý. Mô hình công nghệ đã quá thống trị đến nỗi thật khó để thực hiện nếu không có các nguồn lực của nó, và thậm chí còn khó khăn hơn nữa khi sử dụng mà không theo logic nội tại của mô hình ấy. Chọn lựa một lối sống có mục tiêu độc lập dù chỉ một phần khỏi công nghệ, sức mạnh toàn cầu và áp đảo của nó cũng trở thành ngược dòng. Công nghệ có khuynh hướng hấp thụ mọi thứ vào trong lý luận thép của nó, và những người đang bị bao vây bởi công nghệ “biết rõ rằng khi phân tích đến cùng thì nó không đi theo hướng đem lại lợi ích cũng như sự thịnh vượng cho nhân loại”, họ cũng biết rằng “theo nghĩa sát nhất về mặt thuật ngữ thì quyền lực chính là động cơ của nó – quyền làm chủ mọi sự”.[87] Hậu quả là “con người nắm giữ những yếu tố trần trụi của cả thiên nhiên và bản chất con người”.[88] Khả năng ra quyết định của chúng ta, một sự tự do đích thực và một không gian cho sự sáng tạo của mỗi người bị giảm thiểu.

109. Mô hình kĩ trị cũng có khuynh hướng thống trị đời sống kinh tế và chính trị. Kinh tế chấp nhận mọi sự tiến bộ trong công nghệ miễn là có lợi nhuận, mà không quan tâm đến ảnh hưởng tiêu cực tiềm tàng của nó trên con người. Tài chính bóp nghẹt nền kinh tế thật. Chúng ta chưa học được bài học của những cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và tất cả chúng ta đều rất chậm để học được bài học về suy thoái môi trường. Một số nhóm người vẫn cho rằng nền kinh tế và công nghệ hiện tại sẽ giải quyết mọi vấn đề của môi trường, nói chung là các vấn đề về đói nghèo toàn cầu sẽ được giải quyết đơn giản bằng sự tăng trưởng thị trường. Nhóm người này ít quan tâm đến các lý thuyết kinh tế nhất định bằng hoạt động thực sự của họ trong việc điều hành nền kinh tế. Các lý thuyết này ngày nay hiếm có người dám bảo vệ. Họ không khẳng định bằng ngôn từ, nhưng cổ võ chúng bằng thái độ thờ ơ với các cấp độ sản xuất quân bình hơn, với việc phân phối của cải đúng đắn hơn, hay không quan tâm đến môi trường và quyền lợi của các thế hệ tương lai. Cách hành xử như thế chứng tỏ đối với họ việc tối đa hoá lợi nhuận là đủ. Tuy nhiên, tự bản thân thị trường không thể đảm bảo sự phát triển con người toàn diện và sự hòa nhập xã hội.[89] Đồng thời, chúng ta có “một kiểu siêu phát triển” vô cùng lãng phí và một kiểu tiêu thụ tạo nên thế đối lập không thể chấp nhận được với những hoàn cảnh đánh mất hết nhân tính”,[90] trong khi chúng ta lại quá chậm chạp trong việc phát triển những tổ chức kinh tế và những sáng kiến xã hội đem lại quyền được hưởng những nguồn tài nguyên căn bản cho người nghèo. Chúng ta không nhìn thấy những cội rễ sâu xa nhất của những thất bại hiện tại, là những điều cần phải giải quyết bằng sự định hướng, các mục tiêu, ý nghĩa và những áp dụng mang tính xã hội của sự tăng trưởng công nghệ và kinh tế.

110. Chuyên môn hoá trong công nghệ làm cho người ta khó có thể thấy được bức tranh toàn cảnh. Các mảng kiến thức sẽ hữu ích đối với những áp dụng cụ thể, nhưng lại mất đi sự tôn trọng dành cho toàn thể, dành cho các mối tương quan giữa mọi thứ và một chân trời rộng lớn hơn. Điều đó hoàn toàn không phù hợp. Sự thật rất quan trọng này làm cho người ta thấy khó tìm ra đủ giải pháp để giải quyết những vấn đề phức tạp của thế giới ngày nay, đặc biệt là những vấn đề có liên hệ đến môi trường và người nghèo; những vấn đề này không thể được giải quyết từ một cách tiếp cận đơn lẻ hoặc từ một loạt những mối quan tâm riêng lẻ. Một ngành khoa học muốn đưa ra giải pháp cho những vấn đề lớn này nhất thiết phải đưa vào những dữ liệu được cung cấp từ các lãnh vực tri thức khác, bao gồm triết học và đạo đức xã hội; nhưng ngày nay đây là một thói quen khó đạt tới. Cũng chẳng có những chân trời đạo đức đúng đắn để người ta tham khảo. Cuộc sống dần dần đầu hàng những hoàn cảnh chịu ảnh hưởng bởi công nghệ, xem nó là chìa khoá chính cho ý nghĩa của hiện hữu. Trong hoàn cảnh cụ thể chúng ta đang đối diện, có rất nhiều hiện tượng cho thấy điều gì là sai lầm, chẳng hạn suy thoái môi trường, lo âu, đánh mất mục đích của cuộc đời và mục đích sống cộng đồng. Một lần nữa chúng ta thấy rằng “thực tế thì quan trọng hơn ý tưởng”.[91]

111. Nền văn hoá sinh thái không thể bị giảm thiểu thành một loạt những đáp trả vội vã và nửa vời trước những vấn đề trước mắt về ô nhiễm, suy thoái môi trường và cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cần phải có một đường lối đặc thù để nhìn vào mọi sự, cách tư duy, các chính sách, chương trình giáo dục, lối sống và một nền linh đạo cùng nhau tạo nên sức đề kháng trước sự tấn công của mô hình kĩ trị. Nếu không thì ngay cả những sáng kiến sinh thái tốt nhất cũng bị mắc kẹt trong cùng một luận lý toàn cầu. Chỉ tìm kiếm giải pháp kỹ nghệ cho từng vấn đề môi trường sẽ chia tách sự nối kết lẫn nhau trong thực tại và che đậy những vấn đề thật và sâu xa nhất của hệ thống toàn cầu.

112. Tuy nhiên, chúng ta một lần nữa có thể mở rộng tầm nhìn. Chúng ta có tự do để giới hạn và định hướng công nghệ; chúng ta có thể đặt nó phục vụ một kiểu tiến bộ khác, lành mạnh hơn, nhân bản hơn, xã hội hơn, toàn diện hơn. Trong thực tế có những lần chúng ta giải phóng khỏi mô hình kĩ trị hiện hành, chẳng hạn khi cộng đồng các nhà sản xuất nhỏ áp dụng những phương tiện sản xuất ít gây ô nhiễm hơn, chọn lựa lối sống không tiêu thụ, sự vui tươi và cộng đồng. Hoặc khi công nghệ được định hướng chủ yếu cho việc giải quyết các vấn đề cụ thể của người dân, sẽ thực sự giúp họ sống phong phú hơn phẩm giá của mình và ít khổ cực hơn. Hoặc ước muốn tạo ra và chiêm ngắm vẻ đẹp vượt thắng được chủ nghĩa giản lược ngang qua một kiểu cứu rỗi đang có trong vẻ đẹp và ở nơi những người đang nhìn thấy vẻ đẹp ấy. Một nhân loại đích thực dường như vẫn đang cư ngụ ngay giữa nền văn minh công nghệ của chúng ta, dù hầu như mọi người không nhận ra, đang mời gọi một sự tổng hợp mới như một giọt sương nhẹ nhàng thấm bên dưới một cánh cửa đóng kín. Bất chấp mọi điều xảy ra, liệu nhân loại ấy có tồn tại với tất cả những điều đúng đắn đang nảy sinh trong sự kiên cường?

113. Cũng có một sự thật là con người dường như không còn tin vào một tương lai hạnh phúc nữa; họ không còn tin tưởng mù quáng vào một ngày mai tươi sáng dựa trên tình trạng hiện tại của thế giới và những khả năng kĩ thuật của chúng ta nữa. Người ta ý thức hơn về sự tiến bộ khoa học và công nghệ không thể đánh đồng với sự tiến bộ của nhân loại và lịch sử, người ta cảm thấy cách thế để đi đến một tương lai tốt đẹp hơn hệ tại ở điều khác. Nói như thế không phải là chúng ta từ chối những khả năng mà công nghệ tiếp tục mang lại cho chúng ta. Nhân loại thay đổi cách sâu xa, và sự tích luỹ liên tục những điều mới mẻ đề cao sự hời hợt kéo chúng ta đi vào cùng một hướng. Thật khó để dừng lại và khôi phục chiều sâu của cuộc sống. Nếu kiến trúc phản ánh tinh thần của một thời đại, thì các cơ cấu hàng loạt và các dãy căn hộ xám xịt thể hiện tinh thần của ngành công nghệ toàn cầu hoá, trong đó một dòng lũ liên tục của những sản phẩm mới cùng tồn tại với một sự đơn điệu tẻ nhạt.

Chúng ta đừng rơi vào tình trạng như thế, hãy tiếp tục tự vấn về mục đích và ý nghĩa của mọi sự. Nếu không chúng ta đơn thuần chỉ là hợp thức hoá hoàn cảnh hiện tại và cần những hình thức trốn thoát khác để chịu đựng sự trống rỗng.

114. Tất cả những điều đề cập ở trên cho thấy phải khẩn trương tiến bước trong một cuộc cách mạng văn hoá mạnh mẽ. Khoa học và công nghệ không hề trung dung; ngay từ khởi đầu đến tận cùng của một tiến trình, nhiều ý định và những khả năng đang được áp dụng và có thể mang lấy những hình dạng khác nhau. Không ai đề nghị chúng ta trở về thời kỳ Đồ Đá, nhưng chúng ta thực sự cần phải chậm lại và nhìn vào thực tại một cách khác, để trân trọng sự tiến bộ tích cực và bền vững đã được thực hiện, nhưng cũng để khôi phục các giá trị và các mục tiêu lớn đã bị càn quét bởi những ảo tưởng vô hạn của chúng ta về sự vĩ đại.

III. KHỦNG KHOẢNG VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ THUYẾT HIỆN ĐẠI CON NGƯỜI LÀ TRUNG TÂM (ANTHROPOCENTRISM*)

115. Chủ thuyết hiện đại con người là trung tâm có kết cục thật nghịch lý khi đề cao tư tưởng kĩ thuật trên thực tại, vì “não trạng kỹ thuật xem thiên nhiên như là một trật tự vô cảm, một thân thể lạnh lùng với những dữ kiện, một ‘sự cho đi’ thuần tuý, một đối tượng của tiện ích, là nguyên liệu thô cần được uốn nắn thành hình thù hữu dụng; tương tự như vậy, chủ thuyết này nhìn vũ trụ như là một ‘không gian’ thuần tuý, có thể ném các vật thể vào đó với một thái độ dửng dưng hoàn toàn”.[92] Như thế, phẩm giá nội tại của thế giới bị tổn hại. Khi con người không tìm thấy vị trí thật sự của họ trong thế giới này, họ sẽ hiểu lầm chính họ và hành động chống lại chính bản thân: “Thiên Chúa không chỉ ban cho con người trái đất để sử dụng và tôn trọng mục đích tốt lành nguyên thuỷ của nó, nhưng con người còn là quà tặng của Thiên Chúa dành cho chính con người. Do đó, con người phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý đã được phú ban”.[93]

116. Thời hiện đại mang dấu ấn của chủ thuyết đặt con người làm trung tâm thái quá đến nỗi ngày nay đang tiếp tục phá hoại bất kỳ con đường nào của sự hiểu biết chung và những nỗ lực nhằm củng cố mối dây liên kết xã hội. Đã đến lúc phải canh tân sự chú tâm đến thực tại và những giới hạn nó áp đặt; đây là một điều kiện cho sự phát triển cá nhân và xã hội lành mạnh và phong phú hơn. Trình bày không đầy đủ về nhân chủng học Kitô giáo sẽ gây ra sự hiểu lầm về mối tương quan giữa con người và thế giới. Giấc mơ của Prômơtê được làm bá chủ thế giới là điều ăn sâu trong tâm trí nhiều người, trong đó nổi bật ý tưởng chỉ có những người nhút nhát mới quan tâm bảo vệ thiên nhiên. Thay vào đó, “sự thống trị” của chúng ta trên vũ trụ nên được hiểu đúng là một người quản lý có trách nhiệm”.[94]

117. Thờ ơ với việc kiểm soát mối nguy hại đã gây ra cho thiên nhiên và ảnh hưởng của những điều chúng ta quyết định đến môi trường là một dấu hiệu đáng chú ý nhất chứng tỏ sự coi thường thông điệp chứa đựng trong các cấu trúc của thiên nhiên. Khi chúng ta không nhìn nhận giá trị của người nghèo, của phôi thai người, của người khuyết tật… như là một phần của thực tại thì thật khó để nghe được tiếng kêu của thiên nhiên, vì mọi sự đều có liên hệ với nhau. Một khi con người tuyên bố độc lập khỏi thực tại và hành xử bằng sự thống trị tuyệt đối, các nền tảng chính yếu của cuộc sống bắt đầu suy sụp, “thay vì thực thi vai trò của mình như là người cộng tác với Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, con người lại tự đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa và kết cục là kích động một cuộc nổi loạn của thiên nhiên”.[95]

118. Tình trạng này đưa tới căn bệnh tâm thần phân liệt kinh niên, trong đó tồn tại đồng thời hai thái cực, một đàng là tôn vinh mô hình kĩ trị không nhìn nhận giá trị nội tại của các hữu thể thấp hơn và đàng khác là không nhìn nhận bất kỳ giá trị đặc biệt nào nơi con người. Nhưng người ta không thể tách lìa khỏi nhân loại. Không thể canh tân mối tương quan của chúng ta với thiên nhiên mà không canh tân chính nhân loại. Sẽ không có sinh thái học nếu không có một ngành nhân chủng học đầy đủ. Khi con người bị xem như một thực thể trong số những thực thể khác, là sản phẩm tình cờ hay của định mệnh vật lý, thì “toàn bộ cảm thức trách nhiệm của chúng ta sẽ tan biến”.[96] Chủ thuyết con người làm trung tâm sai lạc không nhất thiết phải nhường chỗ cho “chủ thuyết sự sống làm trung tâm” (biocentrism*), vì như thế lại dẫn đến một tình trạng mất quân bình khác, nhưng không giải quyết được vấn đề hiện tại và những vấn đề mới phát sinh. Không thể mong chờ con người đảm nhận trách nhiệm với thế giới nếu không nhìn nhận và đánh giá những khả năng hiểu biết, ý chí, tự do và trách nhiệm độc nhất của họ.

119. Phê bình chủ thuyết con người là trung tâm sai lạc không có nghĩa là coi thường tầm quan trọng của các mối tương quan liên vị. Nếu cuộc khủng hoảng sinh thái hiện nay là một dấu hiệu bên ngoài của cuộc khủng hoảng đạo đức, văn hoá và tinh thần của thời hiện đại, thì chúng ta không thể giả vờ chữa lành mối tương quan với thiên nhiên và môi trường mà không chữa lành tất cả các mối tương quan nhân loại nền tảng. Tư tưởng Kitô giáo nhìn nhận con người sở hữu một phẩm giá đặc biệt trổi vượt trên hết các loài thụ tạo khác; phải trân trọng từng người và tôn trọng những người khác. Mở lòng với người khác, với một “người bạn” (thou) có khả năng hiểu biết, yêu thương và đối thoại vẫn là nguồn mạch sự cao quý của con người. Mối tương quan đúng đắn với thế giới không hạ thấp chiều kích xã hội của con người trong tương quan rộng mở với người khác, càng không làm suy yếu chiều kích siêu việt rộng mở với “Đấng” là Thiên Chúa. Mối tương quan của chúng ta với môi trường không thể bị cô lập khỏi mối tương quan của chúng ta với những người khác và với Thiên Chúa. Nếu không đó chỉ là chủ nghĩa cá nhân lãng mạn khoác vào chiếc áo sinh thái, nhốt chúng ta trong cái nội tại ngột ngạt.

120. Vì mọi sự đều có liên hệ với nhau, cho nên việc quan tâm bảo vệ thiên nhiên cũng hoàn toàn không thể chấp nhận được khi biện minh cho việc phá thai. Làm sao chúng ta có thể giáo dục sự quan tâm đến những hữu thể yếu đuối trong hoàn cảnh phiền toái hay bất tiện, nếu chúng ta không bảo vệ một phôi thai người, ngay cả khi sự hiện hữu của nó gây khó chịu và tạo ra nhiều khó khăn? “Nếu mất đi sự nhạy bén của cá nhân và xã hội trong việc đón nhận một sự sống mới, thì tất cả hình thức tiếp nhận những thứ giá trị khác của xã hội cũng trở nên héo khô”.[97]

121. Chúng ta cần khai triển một tổng hợp mới có khả năng vượt thắng được những biện chứng sai lầm của hai thế kỷ vừa qua. Trung thành với căn tính và kho tàng sự thật phong phú được lãnh nhận từ Đức Giêsu Kitô, Kitô giáo tiếp tục suy tư về những vấn đề này trong cuộc đối thoại hữu hiệu với các hoàn cảnh lịch sử đang biến đổi. Như thế, Kitô giáo tỏ lộ được sự mới mẽ vĩnh cửu của mình.[98]

Chủ nghĩa tương đối thực dụng 

122. Chủ thuyết lầm lạc coi con người là trung tâm dẫn đến một lối sống lầm lạc. Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, tôi đã nói đến chủ nghĩa tương đối thực dụng điển hình của thời đại chúng ta “thậm chí còn nguy hiểm hơn chủ nghĩa tương đối lý thuyết”.[99] Khi con người tự đặt mình làm trung tâm, họ sẽ dành ưu tiên tuyệt đối cho sự tiện nghi trước mắt và tất cả những thứ khác trở nên tương đối. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi thấy sự xuất hiện của chủ nghĩa tương đối cùng với sự có mặt ở khắp nơi của mô hình kĩ trị và tôn thờ sức mạnh vô hạn của con người. Thứ chủ nghĩa này coi tất cả mọi sự là không phù hợp nếu nó không phục vụ cho những lợi ích trước mắt của con người. Logic này dung túng những thái độ khác nhau dẫn đến suy thoái môi trường và băng hoại xã hội.

Bài này đã được xem 1044 lần!

Pages ( 8 of 17 ): <1 ... 67 8 910 ... 17>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]