123. Nền văn hoá của chủ nghĩa tương đối cũng là một thứ lộn xộn, lôi kéo con người lợi dụng người khác, đối xử với những người khác như với các đồ vật thuần tuý, áp đặt lao động cưỡng bức hoặc làm cho họ trở nên nô lệ để trả nợ. Cùng một lối nghĩ này dẫn đến việc khai thác tình dục trẻ em, bỏ rơi người già vì họ không còn lợi ích nữa. Đó cũng là não trạng của những người cho rằng các thế lực vô hình của thị trường chi phối nền kinh tế, những tác động của nó trên xã hội và thiên nhiên là sự thiệt hại không thể tránh khỏi. Nếu thiếu những sự thật khách quan hoặc những nguyên tắc đúng đắn, ngoài việc thoả mãn những ước muốn và những nhu cầu tức thời của chúng ta, thì đâu là những giới hạn đặt ra đối với việc buôn bán người, tội phạm có tổ chức, buôn bán ma tuý, buôn bán kim cương máu và lông thú của những loài đang gặp nguy hiểm? Không phải cùng một lý luận tương đối đó biện minh cho hành động buôn bán cơ phận của người nghèo hay để sử dụng làm thí nghiệm, hoặc loại bỏ các trẻ em vì cha mẹ chúng không muốn sao? Cùng một lối lý luận “dùng một lần” này tạo ra quá nhiều chất thải, chỉ vì ham muốn tiêu thụ quá mức nhiều hơn điều chúng ta cần. Không nên nghĩ rằng những nỗ lực chính trị hoặc sức mạnh của luật pháp đủ để ngăn chặn những hành động đang ảnh hưởng đến môi trường, vì khi tự thân nền văn hoá bị hư hoại, sự thật khách quan và những nguyên tắc hợp lý phổ quát không còn được tôn trọng nữa, thì luật pháp chỉ là những áp đặt tùy tiện hay những cản trở phải tránh né.
Cần bảo vệ lao động
124. Bất kỳ một cách tiếp cận nào với sinh thái học toàn diện không loại trừ con người cũng cần phải coi trọng giá trị của lao động, như Thánh Gioan Phaolô II đã khôn ngoan nhấn mạnh trong Thông điệp Laborem Exercens. Theo trình thuật Kinh Thánh về sáng tạo, Thiên Chúa đặt người nam và nữ trong khu vườn Ngài đã tạo nên (x. St 2,15) không chỉ để bảo tồn (“canh giữ”) nhưng còn làm cho nó sinh hoa trái (“canh tác”). Do đó, những người lao động và thợ thủ công “giữ cho thế giới được trường tồn” (Hc 38,34). Phát triển thế giới cẩn trọng là chăm sóc nó cách tốt nhất, vì như thế chính bản thân chúng ta trở thành khí cụ được Thiên Chúa sử dụng để khơi dậy tiềm năng Ngài đã khắc ghi trong mọi sự: “Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh dược liệu; những thứ đó, người khôn chẳng dám coi thường.” (Gv 38,4).
125. Nếu chúng ta suy tư về mối tương quan đúng đắn giữa con người với thế giới xung quanh, chúng ta sẽ thấy cần phải hiểu chính xác về công việc; nếu chúng ta nói về mối tương quan giữa con người và sự vật, thì vấn đề đặt ra là ý nghĩa và mục đích các hoạt động của con người. Chúng ta không chỉ nói đến lao động tay chân hay nông nghiệp mà còn nói đến bất kỳ hoạt động nào làm thay đổi thực tại hiện hữu, từ việc soạn thảo một báo cáo xã hội đến việc thiết kế một sự phát triển công nghệ. Trong mọi hình thức lao động đều có mối tương quan với những gì khác bản thân mà chúng ta có thể và phải thiết lập. Cùng với sự chiêm ngắm thán phục công trình sáng tạo của thánh Phanxicô Assisi, truyền thống linh đạo Kitô giáo cũng phát triển một sự hiểu biết phong phú và quân bình về ý nghĩa của công việc, ví dụ như trong đời sống của Chân Phước Charles de Foucauld và bạn hữu của ngài.
126. Chúng ta cũng có thể nhìn vào truyền thống tuyệt vời của đời sống đan viện. Ban đầu thì nó là một hình thức trốn thoát khỏi thế giới, ra khỏi tình trạng suy đồi của các thành phố. Các tu sĩ tìm kiếm sa mạc và tin rằng đó là nơi tốt nhất để gặp gỡ sự hiện diện của Thiên Chúa. Sau này, Thánh Bênêđictô Norcia đề nghị các tu sĩ sống trong cộng đoàn kết hợp cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng với lao động tay chân (ora et labora – cầu nguyện và làm việc). Nhìn nhận lao động tay chân có ý nghĩa thiêng liêng là một cuộc cách mạng thực sự. Phát triển và thánh hoá cá nhân được thực hiện trong nhịp điệu đan xen giữa hồi tâm và làm việc. Kinh nghiệm làm việc này giúp chúng ta bảo vệ và tôn trọng môi trường hơn; mối tương quan của chúng ta với thế giới thấm đượm sự điều độ lành mạnh.
127. Chúng ta tin rằng “con người là nguồn mạch, tâm điểm và mục đích của tất cả đời sống kinh tế và xã hội”.[100] Tuy nhiên, một khi khả năng chiêm ngắm và tôn kính của con người bị suy yếu, chúng ta rất dễ hiểu lầm ý nghĩa của công việc.[101] Chúng ta biết người nam và nữ có “khả năng cải thiện đất đai, để tiến xa hơn trên đường đạo đức và phát triển những nguồn lực thiêng liêng của họ”.[102] Công việc là bối cảnh cho sự phát triển cá nhân phong phú này, trong đó nhiều khía cạnh của cuộc sống đi vào thực tế: sự sáng tạo, việc hoạch định tương lai, phát triển các tài năng, sống các giá trị của chúng ta, liên hệ với những người khác, làm vinh danh Thiên Chúa. Trong thực tế của xã hội toàn cầu ngày nay, nhất thiết phải “tiếp tục ưu tiên mục tiêu cho mọi người có việc làm”,[103] bất chấp những lợi ích hạn hẹp của doanh nghiệp và lý luận kinh tế mơ hồ.
128. Chúng ta được tạo nên với ơn gọi làm việc. Mục tiêu không phải là sự tiến bộ công nghệ dần dần thay thế công việc của con người, điều này sẽ có hại cho nhân loại. Làm việc là cần thiết, tạo nên một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, một con đường cho sự trưởng thành, sự phát triển nhân loại và sự thành toàn cá nhân. Giúp tiền cho người nghèo chỉ là một giải pháp khắc phục tạm thời khi đối phó với trường hợp khẩn cấp. Mục tiêu rộng hơn phải là giúp họ có một cuộc sống tràn đầy nhân phẩm ngang qua công việc. Tuy nhiên, định hướng của nền kinh tế lại cổ võ một loại tiến bộ công nghệ nhằm giảm chi phí sản xuất do cắt giảm lượng công nhân và thay thế họ bằng máy móc các loại. Hành động này cuối cùng sẽ chống lại chính con người. Tình trạng mất việc tác động tiêu cực đến nền kinh tế “ngang qua sự xói mòn tiệm tiến vốn xã hội: mạng lưới các mối tương quan đáng tin cậy, sự phụ thuộc và tôn trọng luật lệ, tất cả những điều này không thể thiếu trong bất kì một hình thức chung sống dân sự nào”.[104] Nói cách khác, “các khoản chi phí của con người luôn bao gồm chi phí kinh tế, và những rối loạn chức năng kinh tế liên hệ đến các khoản chi phí của con người”.[105] Không đầu tư vào con người, để đạt được những khoản lợi tài chính trước mắt, là kiểu kinh doanh tồi tệ đối với xã hội.
129. Để tiếp tục cung cấp việc làm, bắt buộc phải cổ võ một nền kinh tế chuộng sự đa dạng sản xuất và sự sáng tạo trong kinh doanh. Ví dụ, có nhiều hệ thống sản xuất thực phẩm quy mô nhỏ khác nhau để nuôi sống phần lớn các dân tộc trên thế giới, sử dụng một khoản đất khiêm tốn và tạo ra ít chất thải, hoặc ở những mảnh đất nông nghiệp nhỏ, trong các vườn hoa và các vườn trái cây, việc săn bắn và khai thác lâm sản, hay thu hoạch thủy sản. Các nền kinh tế có quy mô lớn, đặc biệt trong lãnh vực nông nghiệp sẽ làm cho những nông dân nhỏ phải bán đất hoặc bỏ các loại cây trồng truyền thống của họ. Những nỗ lực phát triển hình thức sản xuất đa dạng hơn của một số người lại không có kết quả, vì khó tiếp cận với các thị trường khu vực và toàn cầu, hoặc vì cơ sở hạ tầng cho việc bán hàng và vận chuyển hướng đến những doanh nghiệp lớn hơn. Các nhà chức trách có quyền và nghĩa vụ áp dụng những biện pháp rõ ràng và vững chắc để hỗ trợ các nhà sản xuất nhỏ và đa dạng hóa sản xuất. Để đảm bảo sự tự do kinh tế cho tất cả mọi người đều có thể hưởng lợi cách hiệu quả, đôi khi cần phải áp đặt những hạn chế trên những người đang sở hữu nguồn tài nguyên và sức mạnh tài chính lớn. Tuyên bố tự do kinh tế trong khi những điều kiện thực tế ngăn chặn nhiều người tham gia vào nền kinh tế ấy và các khả năng việc làm tiếp tục bị xiết lại, sẽ trở thành một lối nói hàm hồ gây điều tiếng xấu cho các chính sách. Kinh doanh là một ơn gọi cao quý khi theo định hướng tạo ra sự giàu có và cải thiện thế giới, nó có thể là một nguồn thịnh vượng dồi dào cho những vùng nó hoạt động, nhất là khi nó tạo ra việc làm như một phần thiết yếu của sự phục vụ công ích.
Các công nghệ sinh học mới
130. Trong tầm nhìn triết học và thần học về con người và tạo thành mà tôi đã trình bày, rõ ràng con người được phú ban khả năng lý luận và hiểu biết, không phải là một nhân tố bên ngoài để bị loại trừ. Trong khi con người có thể can thiệp trên thực vật và động vật khi cần thiết cho đời sống con người, thì Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng việc thí nghiệm trên các loại động vật về mặt luân lý là chấp nhận được chỉ “khi việc ấy vẫn ở trong những giới hạn hợp lý [và] góp phần vào việc chăm sóc và cứu mạng sống con người”.[106] Giáo Lý xác định: sức mạnh con người có giới hạn và “thật trái với phẩm giá con người khi làm cho động vật phải chịu đau đớn và chết một cách bừa bãi”.[107] Tất cả những sử dụng và thí nghiệm như thế “đòi hỏi phải tôn trọng mang tính tôn giáo cho sự toàn vẹn của tạo thành”.[108]
131. Ở đây tôi muốn nhắc lại vị thế quân bình của Thánh Gioan Phaolô II, ngài đã nhấn mạnh những lợi ích của tiến bộ khoa học và công nghệ chứng tỏ “sự cao quý của ơn gọi làm người được dự phần một cách có trách nhiệm vào hành động sáng tạo của Thiên Chúa”, đồng thời cũng nhấn mạnh rằng “chúng ta không thể can thiệp vào một lãnh vực của hệ thống sinh thái mà không quan tâm đủ đến các hậu quả của nó trên các lãnh vực khác”.[109] Ngài cho thấy Hội Thánh đánh giá cao những lợi ích “từ việc nghiên cứu và ứng dụng của ngành sinh học phân tử, được bổ sung bởi những ngành khác như di truyền học, ứng dụng công nghệ vào trong nông nghiệp và công nghiệp”.[110] Nhưng ngài cũng khuyến cáo không được “thao tác trên vật liệu di truyền cách bừa bãi”[111] vốn làm ngơ trước những ảnh hưởng tiêu cực của chúng. Sự sáng tạo của con người không thể bị áp chế được. Nếu một nghệ sỹ không bị ngăn cản sử dụng khả năng sáng tạo của mình, thì những người sở hữu ân điển đặc biệt cho sự tiến bộ khoa học và công nghệ cũng không bị ngăn cản sử dụng những tài năng Thiên Chúa ban cho việc phục vụ những người khác. Chúng ta cần liên tục suy nghĩ lại về các mục tiêu, các hiệu quả, bối cảnh tổng thể và các giới hạn đạo đức của hoạt động này, nó là một hình thức của quyền lực liên hệ đến những rủi ro lớn.
132. Điều này đúng cho bất kì một suy tư nào có liên quan đến sự can thiệp của con người trên thực vật và động vật, hiện nay bao gồm cả việc biến đổi gien (gene) bằng công nghệ sinh học để khai thác tiềm năng hiện diện trong thực tại vật chất. Sự tôn trọng của niềm tin với lý trí mời gọi một sự chú ý chặt chẽ đối với những điều mà các ngành sinh học có thể dạy cho chúng ta về các cấu trúc sinh học, những khả năng và đột biến của chúng, thông qua nghiên cứu độc lập với những lợi ích kinh tế. Bất cứ một sự can thiệp hợp pháp nào cũng đều tác động lên thiên nhiên để “cổ võ sự phát triển của thiên nhiên trong trật tự của nó, trật tự của tạo thành như Thiên Chúa đã định”.[112]
133. Thật khó để đưa ra một phán quyết chung về biến đổi gien (GM), thực vật hay động vật, y tế hay nông nghiệp, vì những thay đổi rất lớn giữa chúng và cần suy xét cụ thể. Những nguy cơ không phải lúc nào cũng do kĩ thuật, nhưng có thể do ứng dụng chúng không đúng đắn hoặc thái quá. Thực ra, đột biến gien thường vẫn xảy ra trong thiên nhiên. Những đột biến do sự can thiệp của con người cũng không phải là một hiện tượng mới lạ. Chúng ta có thể đề cập một số điển hình như thuần hoá các loài động vật, lai giống giữa các chủng loại và những thực hành từ xưa nhìn chung được chấp nhận. Nên nhớ rằng phát triển khoa học về các loại hạt giống biến đổi gien khởi đầu bằng việc quan sát vi khuẩn tự nhiên đã tự thay đổi hệ gien của cây. Tuy nhiên, trong thiên nhiên, tiến trình này diễn ra chậm rãi và không thể so sánh với tốc độ nhanh chóng do những tiến bộ công nghệ đương đại thiết lập, ngay cả khi những tiến bộ này được xây dựng sau nhiều thế kỷ tiến bộ khoa học.
134. Mặc dù chưa có bằng chứng nào kết luận các loại hạt giống biến đổi gien có thể gây nguy hại cho con người, ở một số vùng việc sử dụng này mang lại sự tăng trưởng kinh tế giúp giải quyết các vấn đề, nhưng vẫn còn đó những khó khăn lớn không lường hết được. Ở nhiều nơi khi có sự ra đời của cây giống này, đất canh tác lại tập trung trong tay một vài chủ nhân vì “sự biến mất dần của những nhà sản xuất nhỏ bị mất đất khai thác, đã bị buộc phải rút ra khỏi việc sản xuất trực tiếp”.[113] Những người tổn thương nhất trong số này lại trở thành người lao động tạm thời, và nhiều lao động nông thôn phải di chuyển đến những vùng đô thị cực nghèo. Việc mở rộng giống cây trồng này phá huỷ mạng lưới phức tạp của các hệ thống sinh thái, suy giảm sự đa dạng trong sản xuất và ảnh hưởng đến các nền kinh tế vùng miền hiện tại và trong tương lai. Trong một số quốc gia có xu hướng mở rộng một số tập đoàn độc quyền sản xuất các loại hạt giống và những sản phẩm khác cần cho việc canh tác. Sự lệ thuộc này càng trầm trọng hơn đối với loại hạt giống vô sinh vì người nông dân buộc phải mua chúng từ những nhà sản xuất lớn.
135. Dĩ nhiên là những vấn đề này đòi hỏi một sự chú ý không ngừng và quan tâm đến các khía cạnh đạo đức của chúng. Cần phải có một cuộc hội thảo xã hội và khoa học sâu rộng và có trách nhiệm, để suy xét tất cả mọi thông tin sẵn có và gọi rõ ràng tên của chúng. Đôi khi thông tin hoàn chỉnh lại không được công khai, nhưng cố tình chọn lọc theo lợi ích đặc biệt nào đó về kinh tế – chính trị hoặc ý thức hệ. Như thế sẽ rất khó để đạt được một sự phán quyết quân bình và cẩn trọng về những vấn đề khác nhau, trong đó đề cập đến tất cả mọi biến số liên quan. Cần phải có những cuộc thảo luận mà tất cả những ai trực tiếp hay gián tiếp chịu ảnh hưởng (nông dân, người tiêu dùng, các nhà cầm quyền dân sự, các nhà khoa học, các nhà sản xuất hạt giống, những người sống gần cánh đồng và những người khác) có thể nói lên các vấn đề và mối bận tâm của họ, được tiếp cận nguồn thông tin đầy đủ và đáng tin cậy để đưa ra những quyết định vì thiện ích chung cho hiện tại và tương lai. Đây là một vấn đề môi trường phức tạp, mời gọi một cách tiếp cận toàn diện, trong đó ít nhất phải có nỗ lực để tài trợ cho những lãnh vực nghiên cứu độc lập, liên ngành có thể chiếu rọi ánh sáng mới trên vấn đề.
136. Mặt khác, cũng đáng lo ngại là một số phong trào sinh thái bảo vệ tính toàn vẹn của môi trường nhất quyết đòi hỏi một số giới hạn nhất định trong việc nghiên cứu khoa học, đôi khi lại không áp dụng những nguyên tắc ấy vào sự sống con người. Họ có khuynh hướng biện minh rằng thí nghiệm cho những tiến bộ vượt mọi ranh giới đó chỉ thực hiện trên phôi thai người. Chúng ta quên mất giá trị bất khả xâm phạm của con người nằm ngoài các bước phát triển của nó. Cũng vậy, công nghệ coi thường các nguyên tắc đạo đức cao cả, cuối cùng nó vẫn được xem là thực hành hợp pháp.
Như chúng ta đã đề cập trong chương này, một nền công nghệ tách lìa khỏi đạo đức thì sẽ không thể hạn chế quyền lực của nó.
CHƯƠNG BỐN
SINH THÁI HỌC TOÀN DIỆN
137. Vì mọi sự đều có liên hệ mật thiết với nhau, và các vấn đề ngày nay mời gọi một tầm nhìn chạm tới mọi khía cạnh của cuộc khủng hoảng toàn cầu, nên tôi đề nghị giờ đây chúng ta sẽ xem xét một số yếu tố của sinh thái học toàn diện, với sự tôn trọng các chiều kích nhân bản và xã hội của nó.
I. SINH THÁI HỌC MÔI TRƯỜNG, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
138. Sinh thái học nghiên cứu mối tương quan giữa các sinh vật với môi trường phát triển của chúng. Như thế, nhất thiết phải có suy tư và thảo luận về các điều kiện cần thiết cho sự sống và sự sinh tồn của xã hội; cần chân thành đặt vấn đề về một số mô hình phát triển, sản xuất và tiêu thụ nhất định. Chúng ta không hiểu biết đầy đủ về mối liên kết giữa mọi sự thế nào. Thời gian và không gian không độc lập với nhau, thậm chí các hạt nguyên tử và hạ nguyên tử cũng không thể xem là tách biệt nhau. Cũng như những khía cạnh khác của hành tinh – vật lý, hoá học và sinh học đều có liên hệ với nhau, các loài sinh vật cũng là một phần của mạng lưới mà chúng ta sẽ không bao giờ khám phá và hiểu một cách đầy đủ được. Nhiều loại sinh vật khác có cùng một phần mã gien của chúng ta. Tri thức rời rạc và những thông tin tách biệt có thể trở thành một hình thức thiếu hiểu biết, nếu chúng ta không biết kết hợp chúng lại với nhau thành một tầm nhìn rộng lớn hơn về thực tại.
Bài này đã được xem 1019 lần!