TÓM LƯỢC HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Các phương tiện sản xuất “không thể được sở hữu để chống lại lao động, cũng không thể được sở hữu chỉ để sở hữu”606. Việc sở hữu các phương tiện sản xuất trở thành bất chính khi tài sản ấy “không được sử dụng hay được sử dụng để cản trở việc lao động của người khác, tìm cách kiếm lời mà không phải nhờ mở rộng lao động và làm giàu cho xã hội, mà chỉ nhờ hạn chế sử dụng chúng hay nhờ khai thác cách bất hợp pháp, nhờ đầu cơ hay phá vỡ tình liên đới giữa những người lao động”607

283Phải hướng tư hữu và công hữu, cũng như các cơ chế của hệ thống kinh tế tới một nền kinh tế phục vụ nhân loại, để chúng góp phần thực hiện nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải. Đặt trong viễn tượng ấy, chúng ta mới thấy việc làm chủ và sử dụng các công nghệ mới và tri thức mới – ngày nay cũng được coi là một hình thức tư hữu không kém phần quan trọng so với việc làm chủ đất đai hay vốn liếng608, thật là quan trọng. Những tài nguyên này – cũng như mọi của cải khác – cũng có mục tiêu phổ quát; chúng cũng phải được đặt trong một khuôn khổ là những chuẩn mực hợp pháp và những quy tắc xã hội để bảo đảm cho chúng được sử dụng phù hợp với các tiêu chuẩn công lý, công bằng và tôn trọng nhân quyền. Nhờ có tiềm năng vô cùng rộng lớn, các phát minh và các công nghệ mới mẻ có thể góp phần quyết định cho sự tiến bộ xã hội; nhưng nếu chúng chỉ tập trung mãi trong tay các nước giàu hơn hay một số ít tập đoàn thế lực, chúng có thể trở thành nguồn tạo ra tình trạng thất nghiệp và làm gia tăng khoảng cách giữa các khu vực đã phát triển và chưa phát triển.

e. Nghỉ ngơi

284Nghỉ ngơi không lao động là một quyền lợi609. Như Thiên Chúa “nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy khỏi mọi công việc mà Ngài đã làm” (St 2,2), con người, cả nam lẫn nữ, đã được tạo dựng theo hình ảnh Ngài cũng phải được nghỉ ngơi đầy đủ và được có thời gian rảnh rỗi để chăm lo cho gia đình, cho đời sống văn hoá, xã hội và tôn giáo của mình610. Việc thiết lập ngày của Chúa – Chúa Nhật – cũng góp phần vào mục tiêu ấy611. Vào các ngày Chủ Nhật và các ngày lễ buộc khác, các tín hữu phải ngưng không “tham gia lao động hay các sinh hoạt có thể cản trở việc thờ phượng Chúa, cản trở niềm vui riêng của ngày Chúa Nhật, cản trở việc thi hành các việc bác ái, cũng như sự thư giãn phù hợp cho tinh thần và thể xác”612. Nhưng các nhu cầu của gia đình và những việc phục vụ rất cần cho xã hội sẽ là những lý do chính đáng cho phép chúng ta khỏi thi hành bổn phận nghỉ ngơi ngày Chủ Nhật. Dù sao, cũng đừng để những việc ấy biến thành thói quen có hại cho đời sống tôn giáo, gia đình và sức khoẻ.

285Chủ Nhật là một ngày cần được thánh hoá bằng các việc bác ái, bằng cách dành thời giờ cho gia đình và bà con họ hàng, cũng như cho các bệnh nhân, người tàn tật và người cao tuổi. Người ta không được quên “các anh em cũng đang có những nhu cầu và những quyền lợi như mình, lại không thể nghỉ ngơi được vì quá nghèo nàn và túng thiếu”613Ngoài ra, Chủ Nhật còn là thời gian thích hợp để suy nghĩ, yên tĩnh, học hỏi và suy niệm, giúp tăng trưởng đời sống nội tâm của người Kitô hữu. Các tín hữu cũng cần biểu lộ sự khác biệt của mình trong ngày ấy bằng thái độ chừng mực, tránh những gì thái quá và chắc chắn phải tránh những gì là bạo lực mà các cuộc vui tập thể đôi khi dẫn tới614. Các tín hữu nên luôn sống ngày của Chúa như một ngày mừng sự giải thoát để có thể tham dự vào “cuộc hội họp và đại hội tưng bừng của những con cái đầu lòng đã được ghi tên trên thiên đường” (x. Dt 12,22-23), nhờ đó, họ tham dự trước cuộc cử hành Vượt Qua sau cùng trong thiên đường vinh quang615.

286Chính quyền có nghĩa vụ phải bảo đảm cho các công dân của mình không bị mất thời gian nghỉ ngơi và sự thờ phượng Thiên Chúa chỉ vì những lý do sản xuất kinh tế. Các chủ nhân cũng có bổn phận tương tự đối với các công nhân của mình616. Vì sự tự do tôn giáo và vì ích chung của mọi người, các Kitô hữu cần tìm cách làm cho ngày Chủ Nhật và các ngày lễ lớn của Giáo Hội được công nhận như những ngày nghỉ hợp pháp. “Họ phải cho mọi người thấy một mẫu gương công khai về cầu nguyện, tôn trọng và vui tươi của mình, và phải tìm cách bảo vệ các truyền thống của mình như một cách đóng góp quý giá vào đời sống tâm linh của xã hội”617. “Mỗi Kitô hữu cần tránh đưa ra những yêu sách không cần thiết trên người khác, khiến người khác không thể tuân giữ Ngày của Chúa”618.

IV. QUYỀN LAO ĐỘNG

a. Lao động là cần thiết

287Lao động là một quyền căn bản và là một điều tốt cho loài người619, một điều vừa hữu ích vừa xứng đáng với con người, vì đó là một phương cách thích hợp cho con người bày tỏ và nâng cao phẩm giá của mình. Giáo Hội tuyên bố lao động có giá trị không phải chỉ vì lao động luôn luôn là một điều thuộc về con người, mà còn vì tự bản chất lao động là một điều cần thiết620. Lao động cần thiết để hình thành và bảo vệ gia đình621, cần thiết để thực hiện quyền tư hữu622, cần thiết để đóng góp vào ích chung của gia đình nhân loại623. Khi xem xét các hệ luỵ luân lý mà vấn đề lao động đặt ra cho đời sống xã hội, Giáo Hội không thể không nêu rõ thất nghiệp là một “thảm hoạ thực sự của xã hội”624, nhất là đối với các thế hệ trẻ.

288Lao động là một điều tốt thuộc về hết mọi người và phải làm sao cho công ăn việc làm có sẵn cho tất cả những ai có khả năng thi hành. Bởi đó, “tạo công ăn việc làm đầy đủ” vẫn là một mục tiêu đòi buộc cho mọi hệ thống kinh tế hướng tới công lý và công ích. Một xã hội, trong đó quyền lao động bị đe doạ hay bị phủ nhận một cách có hệ thống, và một xã hội, trong đó các chính sách kinh tế không cho phép người lao động có được công ăn việc làm thoả đáng, đều “không thể được bênh vực theo quan điểm đạo đức, cũng không thể tìm được sự an bình trong xã hội”625. Vai trò quan trọng, và từ đó dẫn đến trách nhiệm hết sức nặng nề, trong lĩnh vực này là của các “chủ nhân gián tiếp”626 – tức là cá nhân hay tổ chức khác nhau – đang ở trong vị thế điều khiển, ở cấp quốc gia hay quốc tế, các chính sách liên quan đến lao động và kinh tế.

289Khả năng hoạch định của một xã hội hướng tới công ích và lưu ý đến tương lai được đo lường chủ yếu dựa vào triển vọng công ăn việc làm mà xã hội ấy có thể cung ứng. Mức thất nghiệp cao, các hệ thống giáo dục bất thường, những khó khăn dai dẳng để được đào tạo nghề nghiệp và để bước vào thị trường lao động, đặc biệt đối với nhiều người trẻ, chính là một trở ngại rất lớn trên con đường hoàn thiện con người về mặt nhân bản và chuyên môn. Thật vậy, những người thất nghiệp hay không được tuyển dụng đúng phải chịu những hậu quả tiêu cực rất sâu xa do tình trạng ấy tạo ra trong nhân cách của mình và họ có nguy cơ bị gạt ra bên lề ngay trong xã hội của họ hoặc có nguy cơ trở thành nạn nhân của một sự khai trừ do xã hội627. Nói chung, đây là bi kịch tác động không những đến người trẻ, mà cả các phụ nữ, những người lao động ít chuyên môn, những người thiếu khả năng, những người di cư, những người thất học, nghĩa là tất cả những ai phải khó khăn hơn để kiếm việc làm trong thị trường lao động. 

290Duy trì công ăn việc làm càng ngày càng lệ thuộc vào khả năng chuyên môn của người lao động628. Các hệ thống giáo dục và đào tạo không được bỏ qua việc đào tạo nhân bản hay công nghệ, là những điều rất cần để đương sự có thể chu toàn trách nhiệm một cách hiệu quả. Nhu cầu ngày càng phổ biến là mỗi người phải thay đổi việc làm nhiều lần trong cuộc đời mình đòi hệ thống giáo dục phải cổ vũ mọi người sẵn sàng tham gia việc cập nhật và tái huấn luyện liên tục. Người ta nên dạy người trẻ biết hành động theo sáng kiến của mình, dám nhận trách nhiệm đương đầu bằng khả năng chuyên môn của chính mình trước những rủi ro gắn liền với bối cảnh kinh tế biến động – một bối cảnh thường không thể dự đoán được629. Một việc cũng cần thiết không kém là cung cấp các khoá học thích hợp để đào tạo những người trưởng thành cần được đào tạo lại và những người thất nghiệp. Nói một cách tổng quát hơn, người ta cần được hỗ trợ một cách cụ thể khi tham gia vào thế giới lao động, trước hết qua các hệ thống đào tạo, để họ bớt khó khăn khi phải đối phó với những thời kỳ biến động, bất trắc và bất ổn.

b. Vai trò của Nhà Nước và xã hội dân sự trong việc phát huy quyền lao động

291Vấn đề công ăn việc làm đang thách thức trách nhiệm của Nhà Nước, là cơ quan có nhiệm vụ đẩy mạnh các chính sách lao động tích cực, tức là những chính sách khuyến khích tạo công ăn việc làm ngay trong lãnh thổ quốc gia, giúp khu vực sản xuất có được những yếu tố động viên để đạt được mục tiêu ấy. Nghĩa vụ của Nhà Nước không phải là trực tiếp bảo đảm quyền lao động của mỗi công dân, khiến cho toàn bộ đời sống kinh tế trở nên hết sức cứng nhắc, cũng như hạn chế các sáng kiến tự do của cá nhân, cho bằng là “duy trì các hoạt động kinh doanh bằng cách tạo ra những điều kiện có thể bảo đảm có công ăn việc làm, hay kích thích các hoạt động đang thiếu việc làm hoặc hỗ trợ các hoạt động ấy trong những cơn khủng hoảng”630.

292Vì quan hệ kinh tế – tài chính và thị trường lao động ngày càng có tính toàn cầu, nên cần phải đẩy mạnh việc hợp tác hiệu quả giữa các quốc gia qua các hiệp ước, các thoả thuận và các kế hoạch hành động chung, nhằm bảo vệ quyền lao động, cả trong những giai đoạn khủng hoảng nhất của chu kỳ kinh tế, ở cấp quốc gia và quốc tế. Cần ý thức sự kiện này: lao động của con người là một quyền lợi,mà nhờ đó công lý xã hội và hoà bình dân sự được phát huy một cách trực tiếp. Về việc này, nhiệm vụ quan trọng là của các tổ chức quốc tế và các liên đoàn lao động. Để liên kết được các lực lượng cách thích hợp nhất, các tổ chức và liên đoàn này phải phấn đấu trước tiên là tạo ra “một hệ thống hết sức chặt chẽ các chuẩn mực pháp lý để bảo vệ lao động của con người, của phụ nữ và người trẻ, bảo đảm cho họ được hưởng lương bổng thích đáng”631.

293Để đẩy mạnh quyền lao động, hiện nay cũng như vào thời của Thông điệp Rerum Novarum, cần phải có “một tiến trình cởi mở cho xã hội tự tổ chức lấy”632. Biết bao bằng chứng và thí dụ rất có ý nghĩa về việc tự tổ chức này, chúng ta có thể tìm thấy nơi nhiều tổ chức – kinh doanh và xã hội – nổi bật ở chỗ đó là những hình thức khác nhau của việc tham gia, hợp tác và tự quản trị, cho thấy sự kết hợp của mọi nguồn năng lực trong tinh thần liên đới. Những hình thức này xuất hiện trên thị trường, giống như một khu vực lao động đa dạng, có đặc điểm là quan tâm đặc biệt tới các yếu tố có liên hệ với nhau làm nên sản phẩm và làm nên các dịch vụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, các dịch vụ xã hội căn bản và văn hoá. Các tổ chức trong khu vực được gọi là “khu vực thứ ba” này càng ngày càng trở thành một cơ hội quan trọng để phát triển lao động và kinh tế.

c. Gia đình và quyền lao động 

294Lao động là “một cơ sở để hình thành đời sống gia đình, mà đây là một quyền tự nhiên và là điều mà con người được mời gọi hướng tới”633. Lao động là phương thế sinh tồn và là một nguồn bảo đảm việc nuôi dạy con cái634. Gia đình và lao động, lệ thuộc nhau một cách hết sức chặt chẽ trong kinh nghiệm của đại đa số, rất đáng được chúng ta xem xét một cách thực tế hơn, rất đáng được chúng ta quan tâm tìm hiểu chung với nhau, vượt trên những hạn chế do quan niệm về gia đình một cách quá riêng tư hay do quan niệm về lao động một cách quá nặng tính kinh tế. Về điểm này, các nhà kinh doanh, các tổ chức nghề nghiệp, các liên đoàn lao động và Nhà Nước nên đẩy mạnh các chính sách – theo quan điểm lao động – không nhằm gây bất lợi mà hỗ trợ hạt nhân gia đình nhiều hơn. Thật vậy, đời sống gia đình và lao động ảnh hưởng lên nhau bằng nhiều cách. Phải đi quá xa mới tới nơi làm việc, phải làm hai công việc, bị mệt mỏi về thể lý lẫn tâm lý, tất cả những sự việc ấy đã làm giảm rất nhiều thời gian một người dành cho gia đình635. Tình trạng thất nghiệp có ảnh hưởng rất nhiều trên gia đình, về mặt vật chất cũng như tinh thần, cũng giống như những căng thẳng và khủng hoảng của gia đình đều có ảnh hưởng tiêu cực trên thái độ và sức sản xuất của con người khi lao động.

d. Phụ nữ và quyền lao động

295Tài năng của nữ giới cần thiết trong bất cứ sinh hoạt nào của đời sống xã hội, và vì thế cũng cần phải bảo đảm cho phụ nữ có mặt tại nơi làm việc. Bước đầu tiên cần làm trong hướng đi này là phải cho họ có khả năng cụ thể tham gia việc đào tạo nghề nghiệp. Công nhận và bảo vệ các quyền của phụ nữ trong bối cảnh lao động thường lệ thuộc vào cách tổ chức lao động – khi tổ chức lao động, người ta cần cứu xét đến phẩm giá và thiên chức của phụ nữ – “Sự thăng tiến thực sự của phụ nữ… đòi phải tổ chức việc lao động thế nào để người phụ nữ không vì sự thăng tiến ấy mà phải từ bỏ những gì riêng biệt của mình”636. Đây là thước đo giá trị của một xã hội và công việc bảo vệ hữu hiệu của xã hội đó đối với quyền lao động của phụ nữ.

Sở dĩ hiện nay vẫn còn nhiều hình thức kỳ thị có hại cho phẩm giá và thiên chức của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, đó là vì lâu nay vẫn có hàng loạt quy định gây bất lợi cho phụ nữ, những người mà “đặc quyền của họ không được tôn trọng” và bản thân họ “đã bị gạt ra bên lề xã hội, thậm chí còn bị đẩy xuống hàng nô lệ”637. Tiếc thay, những khó khăn ấy vẫn chưa được giải quyết, như thấy nhan nhãn những tình huống làm băng hoại người phụ nữ, làm cho họ trở thành đối tượng bị bóc lột thật sự. Cần phải cấp tốc nhìn nhận một cách hữu hiệu các quyền lợi của phụ nữ tại nơi làm việc, nhất là quyền được trả lương, được hưởng bảo hiểm và an sinh xã hội638.

e. Lao động trẻ em 

296Việc lao động của trẻ em, dưới những hình thức không thể chấp nhận, là một loại bạo động tuy ít rõ ràng hơn các hình thức bạo động khác nhưng không vì thế mà kém phần kinh khủng639. Đây là một sự bạo động, dù có dính líu đến chính trị, kinh tế và pháp luật, nhưng chủ yếu vẫn là một vấn đề luân lý. Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã cảnh cáo như sau: “Đối với các trẻ em, cần quan tâm thế nào để chúng không bị đưa vào các xưởng thợ và nhà máy, cho tới khi cơ thể và tinh thần của chúng đã phát triển đủ. Vì, cũng như thời tiết khắc nghiệt sẽ huỷ hoại các búp non, kinh nghiệm quá sớm về những vất vả của cuộc sống sẽ làm hại triển vọng còn non trẻ của các khả năng nơi đứa trẻ, và khiến cho mọi cố gắng giáo dục chân chính đều trở nên vô phương thực hiện”640. Sau hơn 100 năm, tai hoạ trong việc sử dụng lao động trẻ em vẫn chưa khắc phục được.

Ngay cả khi biết rằng, ít là hiện nay, tại nhiều quốc gia, sự đóng góp do lao động của trẻ em mang lại cho thu nhập của gia đình và cho nền kinh tế quốc gia là hết sức cần thiết, và có một vài hình thức làm việc một phần thời gian xem ra rất có ích cho chính đứa trẻ, học thuyết xã hội của Giáo Hội vẫn lên án việc gia tăng “khai thác trẻ em tại các công xưởng trong những điều kiện làm việc đúng là của nô lệ”641. Sự khai thác này chính là một hình thức xúc phạm nghiêm trọng đến phẩm giá con người, một phẩm giá mà bất cứ ai đều có quyền hưởng, “dù họ có nhỏ bé hay xem ra ít quan trọng đến đâu nói theo ngôn từ thực dụng”642.

f. Vấn đề nhập cư và lao động

297Nhập cư có thể trở thành một nguồn đem lại sự phát triển hơn là cản trở sự phát triển. Trong thế giới hiện nay, khi vẫn còn những sự bất bình đẳng nghiêm trọng giữa các nước giàu và các nước nghèo, và khi những tiến bộ trong việc truyền thông đã nhanh chóng làm giảm các khoảng cách địa lý, thì việc nhập cư của nhiều người để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn ngày càng gia tăng. Họ là những người đến từ những khu vực kém may mắn trên thế giới và việc họ di cư đến các nước đã phát triển thường bị coi là sự đe doạ cho mức sống cao mà các nước ấy đã đạt được nhờ nhiều thập niên kinh tế phát triển. Thế nhưng, trong nhiều trường hợp, những người nhập cư ấy lại thoả mãn được nhu cầu lao động, mà nếu không có họ, sẽ chẳng bao giờ được đáp ứng tại những khu vực và lãnh thổ mà lực lượng lao động địa phương không có đủ hay không muốn tham gia vào những công việc đang nói tới.

Bài này đã được xem 2989 lần!

Pages ( 23 of 54 ): <1 ... 2122 23 2425 ... 54>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]