298. Các tổ chức tại các nước chủ nhà phải theo dõi kỹ lưỡng để ngăn chặn cơn cám dỗ muốn khai thác các lao động nước ngoài, không cho họ hưởng cùng một quyền lợi như những người trong nước, những quyền lợi mà đáng ra phải được bảo đảm cho hết mọi người không phân biệt. Điều phối việc nhập cư theo các tiêu chuẩn công bằng và quân bình643 là một trong những điều kiện cần thiết để bảo đảm cho các người nhập cư được hội nhập vào xã hội với những sự bảo đảm cần thiết để phẩm giá của họ được công nhận. Người nhập cư phải được đón nhận như những con người và được giúp đỡ để trở thành một thành phần trong đời sống xã hội tại chỗ, cùng với gia đình của họ644. Trong bối cảnh này, cần phải tôn trọng và đẩy mạnh quyền đoàn tụ của các gia đình645. Đồng thời, phải đẩy mạnh hết sức có thể những điều kiện làm tăng các cơ hội lao động ngay tại quê nhà của họ646.
g. Thế giới nông nghiệp và quyền lao động
299. Lao động nông nghiệp đáng được đặc biệt quan tâm, vì vai trò của lao động nông nghiệp về mặt xã hội, văn hoá và kinh tế vẫn còn quan trọng trong hệ thống kinh tế của nhiều quốc gia, và vì chúng ta cũng đang chứng kiến nhiều vấn đề mà lao động nông nghiệp phải đối phó trong bối cảnh của một nền kinh tế ngày càng bị toàn cầu hoá, cũng như tầm quan trọng ngày càng tăng của lao động nông nghiệp trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên. “Vì thế, cần có những sự thay đổi triệt để và khẩn cấp để trả lại cho nông nghiệp – và cho dân chúng ở nông thôn – giá trị đúng đắn của cả hai, làm nền tảng cho một nền kinh tế lành mạnh, trong khuôn khổ phát triển cộng đồng xã hội như một đơn vị thống nhất”647.
Những sự thay đổi sâu xa và triệt để đang diễn ra trên bình diện xã hội và văn hoá cả trong nông nghiệp lẫn trong thế giới nông thôn rộng lớn đòi chúng ta phải khẩn cấp xem xét lại kỹ lưỡng ý nghĩa của lao động nông nghiệp về nhiều chiều hướng khác nhau. Đây là một thách thức hết sức quan trọng mà chúng ta cần phải đương đầu, kéo theo những chính sách nông nghiệp và môi trường, vừa vượt lên trên quan niệm an sinh do quá khứ để lại vừa mở ra những viễn cảnh mới cho một nền nông nghiệp hiện đại, đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và kinh tế.
300. Tại một số quốc gia, cần phải có sự phân phối lại đất đai, như một phần trong các chính sách cải cách ruộng đất lành mạnh, để khắc phục trở ngại do hệ thống lãnh địa phi sản xuất – từng bị học thuyết xã hội của Giáo Hội lên án648 – gây ra cho tiến trình phát triển kinh tế chân chính. “Các quốc gia đang phát triển có thể đương đầu cách hiệu quả với tiến trình hiện nay, theo đó quyền làm chủ đất đai chỉ tập trung vào tay một số ít người, nếu đứng trước một số tình huống đặt thành những vấn đề thực sự có liên quan đến cơ chế, chẳng hạn như những thiếu sót và trì trệ của luật pháp trong việc công nhận quyền sở hữu đất và trong việc liên hệ với thị trường tín dụng, hoặc thiếu quan tâm tới việc nghiên cứu và đào tạo nông nghiệp, bỏ bê các dịch vụ xã hội và các cơ sở hạ tầng tại các vùng nông thôn”649. Bởi đó, cải cách ruộng đất đã trở thành một bổn phận luân lý hơn là một đòi hỏi chính trị, vì nếu không thực hiện được sự cải cách ấy, các quốc gia đó sẽ bị cản trở không hưởng được những lợi ích do việc mở cửa thị trường, và nói chung, do những cơ hội phát triển phong phú mà tiến trình toàn cầu hoá hiện nay mang lại650.
V. CÁC QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
a. Phẩm giá người lao động và việc tôn trọng các quyền lợi của người lao động
301. Các quyền lợi của người lao động, cũng như tất cả các quyền khác, đều dựa trên bản tính và phẩm giá siêu việt của con người. Huấn quyền xã hội của Giáo Hội đã nhận thấy nên liệt kê một số trong các quyền ấy, với hy vọng rằng chúng sẽ được nhìn nhận trong các hệ thống tư pháp: quyền hưởng lương công bằng651; quyền nghỉ ngơi652; quyền “có được môi trường làm việc và với những quá trình sản xuất không làm hại tới sức khoẻ thể lý hay đời sống luân lý của người lao động”653; quyền được bảo vệ nhân cách của mình tại nơi làm việc “mà không phải chịu một thương tổn nào đối với lương tâm hay phẩm giá của mình”654; quyền được hưởng những trợ cấp thích đáng cần thiết để nuôi sống gia đình và nuôi sống mình khi thất nghiệp;655 quyền được hưởng trợ cấp và bảo hiểm khi về già, bệnh tật và bị tai nạn lao động656; quyền được an toàn về mặt xã hội khi làm mẹ657; quyền hội họp và lập hội658. Những quyền này thường bị vi phạm; điều ấy được xác nhận qua một sự kiện đáng buồn là người lao động thường bị trả lương thấp, không được bảo vệ hay không có những đại diện thích đáng. Chúng ta cũng thường thấy điều kiện làm việc cho đàn ông, đàn bà và trẻ em, nhất là tại các nước đang phát triển, rất phi nhân, đến nỗi chúng xúc phạm tới phẩm giá của họ và làm hại tới sức khoẻ của họ.
b. Quyền được hưởng lương công bằng và được phân chia lợi tức
302. Tiền lương là phương tiện quan trọng nhất để đạt được công lý trong các quan hệ lao động659. “Lương công bằng là kết quả chính đáng của lao động”660. Ai không chịu trả lương công bằng hay trả lương không đúng hạn và không tương xứng với việc đã làm đều phạm tội bất công nặng nề (x. Lv 19,13; Đnl 14,14-15; Gc 5,4). Tiền lương là phương thế cho phép người lao động hưởng được tài nguyên của trái đất. “Lương trả cho lao động phải thế nào để con người có phương tiện chăm lo đời sống vật chất, xã hội, văn hoá và tâm linh của mình và của những người tuỳ thuộc mình, căn cứ trên chức năng và năng suất của mỗi người, hoàn cảnh của xí nghiệp hay công xưởng và công ích”661. Chỉ căn cứ trên sự thoả thuận giữa thợ và chủ về số tiền sẽ nhận được là chưa đủ để có một mức lương được đánh giá là “lương công bằng”, vì lương công bằng “không được thấp hơn mức sống”662 của người lao động: công lý tự nhiên phải là điều kiện tiên quyết và phải được đặt cao hơn sự thoả thuận tự do giữa hai bên.
303. Sự thịnh vượng kinh tế của quốc gia không chỉ được đo bằng số lượng của cải quốc gia ấy làm ra, mà còn phải xét tới cách thế mà chúng được làm ra và mức độ công bằng trong việc phân chia lợi tức, nhờ đó ai ai cũng có được những điều cần thiết cho sự phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Muốn phân chia lợi tức một cách công bằng, phải dựa vào các tiêu chuẩn không phải chỉ của công lý giao hoán mà còn của công lý xã hội, tức là không chỉ xét tới giá trị khách quan của công việc đã làm mà còn xét tới phẩm giá của những người làm công việc ấy. Một sự thịnh vượng kinh tế đích thực còn là sự thịnh vượng được theo đuổi nhờ những chính sách xã hội thích hợp để phân chia lại lợi tức, tức là những chính sách có xét đến các hoàn cảnh chung, công trạng cũng như nhu cầu của mỗi công dân.
c. Quyền đình công
304. Giáo huấn xã hội của Giáo Hội nhìn nhận sự chính đáng của việc đình công “khi không thể tránh được hay ít là khi cần giành được một lợi ích tương xứng”663, khi các phương pháp khác để giải quyết tranh chấp đều đã vô hiệu664. Đình công, một trong những chiến thắng cam go nhất mà các nghiệp đoàn lao động giành được, có thể được định nghĩa là sự từ chối tập thể, có phối hợp của các người lao động không muốn tiếp tục phục vụ, để nhờ áp lực trên các chủ nhân, Nhà Nước hay trên công luận như thếmà người lao động có được những điều kiện làm việc tốt hơn hay quy chế xã hội của họ được cải thiện. Đình công, “như một loại tối hậu thư”665, phải luôn luôn là một biện pháp hoà bình nhằm đưa ra những yêu sách và đấu tranh cho quyền lợi của người lao động. Đình công sẽ trở thành “không thể chấp nhận được về mặt luân lý khi nó có bạo lực đi kèm hay khi các mục tiêu nêu ra không trực tiếp liên quan tới điều kiện làm việc hay khi các mục tiêu ấy đi ngược với công ích”666.
VI. SỰ LIÊN ĐỚI GIỮA NHỮNG NGƯỜI LAO ĐỘNG
a. Tầm quan trọng của các nghiệp đoàn
305. Huấn Quyền nhìn nhận vai trò căn bản của các nghiệp đoàn lao động; sự hiện hữu của chúng có liên hệ với quyền lập các hiệp hội hay công đoàn để bảo vệ các lợi ích sinh tử của người lao động trong các ngành nghề khác nhau. Các nghiệp đoàn “phát triển từ sự đấu tranh của những người lao động – những người lao động nói chung và cách riêng là những người lao động trong công nghiệp – để bảo vệ những quyền lợi đúng đắn của mình đối chọi với các nhà quản lý và các nhà sở hữu các phương tiện sản xuất”667. Khi theo đuổi mục tiêu riêng của mình có liên quan tới công ích, các tổ chức ấy đúng là một nguồn ảnh hưởng tích cực trên trật tự xã hội và sự liên đới xã hội, và vì thế, chúng là một yếu tố cần thiết trong đời sống xã hội. Nhìn nhận các quyền lợi của người lao động luôn là một vấn đề nan giải, vì sự nhìn nhận ấy đang diễn ra trong tiến trình lịch sử và cơ chế rất phức tạp, và cho tới bây giờ vẫn chưa được đầy đủ. Điều này càng làm cho việc thể hiện tình liên đới đích thực giữa các người lao động trở nên thích đáng và cần thiết hơn bao giờ hết.
306. Theo học thuyết xã hội của Giáo Hội, mọi quan hệ trong thế giới lao động phải mang đặc tính cộng tác: thù ghét và tìm cách khai trừ người khác là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được. Điều này cũng đúng khi trong bất cứ hệ thống xã hội nào, “lao động” và “tư bản” cũng là những nhân tố cần thiết trong tiến trình sản xuất. Hiểu như thế nên học thuyết xã hội của Giáo Hội “không cho rằng các nghiệp đoàn chẳng qua chỉ là phản ánh cơ cấu “giai cấp” trong xã hội và chúng chỉ là phát ngôn viên cho một cuộc đấu tranh giai cấp không thể tránh khỏi đang điều khiển đời sống xã hội”668. Nói cho đúng, các nghiệp đoàn chính là những tác nhân đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho công lý xã hội, đấu tranh cho quyền lợi của người lao động trong ngành nghề riêng của họ: “Cần phải coi sự đấu tranh này như một nỗ lực bình thường ‘để giành lấy’ điều tốt chính đáng… chứ không phải là sự đấu tranh nhằm ‘chống lại’ người khác”669. Vì vốn là những công cụ xây dựng tình liên đới và công lý, các nghiệp đoàn không được phép lạm dụng các phương thế tranh đấu. Vì mục tiêu mà các nghiệp đoàn được mời gọi thực hiện, các nghiệp đoàn phải khắc phục cám dỗ cho rằng người lao động nào cũng phải là đoàn viên nghiệp đoàn, các nghiệp đoàn phải có khả năng tự điều hoà mình và có khả năng đánh giá các hậu quả mà các quyết định của mình có thể gây ra đối với công ích670.
307. Ngoài chức năng bênh vực và minh chứng, các nghiệp đoàn còn có nghĩa vụ làm đại biểu phục vụ cho việc “sắp xếp đời sống kinh tế cho phù hợp” và giáo dục lương tâm xã hội của người lao động, để họ cảm thấy mình đang đóng một vai trò tích cực theo khả năng và năng khiếucủa mình, trong toàn bộ công cuộc phát triển kinh tế và xã hội, cũng như trong việc mưu cầu ích lợi chung cho mọi người671. Các nghiệp đoàn và các hình thức hiệp hội lao động khác phải cộng tác với các thực thể xã hội khác và phải quan tâm tới việc xử lý các vấn đề chung. Các tổ chức nghiệp đoàn có nhiệm vụ tạo ảnh hưởng trong đấu trường chính trị, làm cho mọi người nhạy cảm đúng mức trước các vấn đề lao động và giúp mọi người làm việc sao cho các quyền của người lao động được tôn trọng. Tuy nhiên, nghiệp đoàn không mang tính chất của các “đảng phái chính trị” tranh giành quyền lực; cũng không nên ép buộc các nghiệp đoàn phải tuân theo các quyết định của các đảng phái chính trị hay liên kết quá chặt chẽ với các đảng phái chính trị. “Nếu rơi vào tình cảnh ấy, các nghiệp đoàn sẽ dễ dàng đánh mất vai trò riêng biệt của mình, là bảo đảm cho có các quyền chính đáng của người lao động trong khuôn khổ công ích của toàn xã hội; bằng không chúng sẽ trở thành công cụ phục vụ các mục tiêu khác”672.
b. Những hình thức liên đới mới mẻ
308. Trong bối cảnh kinh tế – xã hội hiện đại, có đặc điểm là được toàn cầu hoá về mặt tài chính và kinh tế ngày càng nhanh, các nghiệp đoàn được thôi thúc phải đổi mới. Hiện nay, các nghiệp đoàn đang được kêu gọi hãy hoạt động một cách mới mẻ673, mở rộng tầm hoạt động liên đới của mình để không chỉ bảo vệ các hạng người lao động truyền thống, mà cả những người làm việc theo những hợp đồng không đúng tiêu chuẩn hay chỉ có giá trị một thời gian, những người lao động luôn bị đe doạ thất nghiệp do việc sáp nhập kinh doanh ngày càng nhiều, kể cả ở cấp quốc tế; những người không có việc làm, những người nhập cư, những người lao động thời vụ và những người vì chưa được cập nhật về mặt chuyên môn đã bị đào thải khỏi thị trường lao động và không thể nào được nhận lại nếu không được tái đào tạo một cách thích hợp.
Trước những thay đổi đang diễn ra trong thế giới lao động, tình liên đới có thể được khôi phục lại, và có lẽ có được nền tảng vững chắc hơn so với quá khứ, nếu biết cố gắng khám phá lại giá trị chủ quan của lao động: “phải tiếp tục tìm hiểu chủ thể lao động và những điều kiện sống của chủ thể”. Chính vì lý do này mà “hiện nay đang cần có những phong trào liên đới mới mẻ của người lao động và với người lao động”674.
309. Khi theo đuổi “những hình thức liên đới mới mẻ” ấy675, các hiệp hội công nhân cần phải tập trung mọi nỗ lực vào việc lãnh nhận các trách nhiệm lớn lao hơn, không chỉ đối với các cơ chế truyền thống về việc tái phân phối, mà còn trong việc sản xuất ra của cải, và tạo ra các điều kiện xã hội, chính trị và văn hoá, cho phép bất cứ ai có khả năng lao động và muốn lao động đều có thể thực hiện quyền lao động mà vẫn bảo đảm nguyên vẹn phẩm giá của mình. Tình trạng ngày càng mất dần những mô hình tổ chức dựa trên các người lao động ăn lương tại các công ty lớn cho thấy thật thích hợp khi cập nhật lại các chuẩn mực và hệ thống an ninh xã hội, mà xưa nay vẫn giúp bảo vệ các người lao động và bảo đảm các quyền căn bản của họ.
VII. “NHỮNG ĐIỀU MỚI MẺ” CỦA THẾ GIỚI LAO ĐỘNG HIỆN NAY
a. Một giai đoạn chuyển tiếp làm nên lịch sử
310. Hiện tượng toàn cầu hoá là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất tạo ra sự thay đổi hiện nay trong việc tổ chức lao động. Hiện tượng này đã khai sinh ra những hình thức sản xuất mới mẻ, theo đó nhà máy có thể được đặt xa nơi người ta quyết định các chiến lược và xa thị trường tiêu thụ hàng hoá. Có hai yếu tố tiên quyết đưa tới hiện tượng này: tốc độ kinh khủng của việc truyền thông không còn bị giới hạn bởi không gian hay thời gian, và việc di chuyển khá dễ dàng hàng hoá và con người từ nơi này sang nơi khác trên thế giới. Điều này sẽ kéo theo một hậu quả cơ bản cho tiến trình sản xuất, chẳng hạn như vật sở hữu càng ngày càng được tách rời và thường không quan tâm gì đến những hậu quả xã hội do các quyết định gây ra. Mặt khác, nếu đúng là toàn cầu hoá tự nó không tốt cũng không xấu mà xấu hay tốt là tuỳ theo cách người ta vận dụng nó676, thì cũng phải xác nhận rằng cần phải toàn cầu hoá các biện pháp bảo vệ, các quyền lợi căn bản và sự công bằng tối thiểu.
311. Một trong những đặc điểm có ý nghĩa nhất trong cách tổ chức lao động mới mẻ là sự phân mảnh một cách vật lý chu kỳ sản xuất, nhằm đạt được hiệu quả và lợi nhuận lớn hơn. Theo viễn tượng ấy, những sự phối hợp trong không gian và thời gian theo truyền thống trước đây để thực hiện chu kỳ sản xuất hiện nay đã trải qua một sự thay đổi chưa từng có trước đó, khiến cho chính cơ chế lao động cũng phải đổi thay. Tất cả những điều này để lại những hậu quả lớn lao trong đời sống của các cá nhân và cộng đồng, khiến cho đời sống của hai bên bị thay đổi triệt để cả trên bình diện những điều kiện vật chất lẫn bình diện văn hoá và các giá trị. Cả trên cấp toàn cầu lẫn địa phương, hiện tượng ấy đang chi phối hàng triệu người, bất kể thuộc nghề nghiệp nào, địa vị xã hội nào hay được trang bị về văn hoá như thế nào. Tổ chức lại thời gian lao động, tiêu chuẩn hoá việc tổ chức ấy và những thay đổi đang diễn ra trong việc sử dụng không gian – có thể so sánh với cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất ở chỗ chúng chi phối mọi lĩnh vực sản xuất trên mọi châu lục, bất kể trình độ phát triển tại đó thế nào – các sự việc đó cần phải được coi như một thách đố hết sức quan trọng, cả trên bình diện đạo đức lẫn văn hoá, bắt chúng ta phải xác định lại một hệ thống mới nhằm bảo vệ lao động.
Bài này đã được xem 2950 lần!