325. Đức Giêsu lấy lại toàn bộ truyền thống Cựu Ước, kể cả thái độ đối với các của cải kinh tế, sự giàu có và nghèo nàn, nhưng Người làm cho truyền thống ấy được sáng tỏ và đầy đủ hơn nhiều (x. Mt 6,24; 13,22; Lc 6,20-24; 12,15-21; Rm 14,6-8; 1 Tm 4,4). Với việc ban Thánh Thần của mình và làm cho các tâm hồn hoán cải, Đức Giêsu đến để thiết lập “Nước Thiên Chúa”, để người ta có thể sống đời sống xã hội theo một cung cách mới, trong công lý, tình huynh đệ, sự liên đới và chia sẻ. Nước Thiên Chúa do Đức Kitô khai mạc kiện toàn sự tốt lành nguyên thuỷ của trật tự sáng tạo và sự tốt lành ban đầu của các hoạt động con người, từng bị tội làm thương tổn. Một khi được giải thoát khỏi sự dữ và được đưa trở lại để hiệp thông với Thiên Chúa, con người có thể tiếp tục công việc của Đức Giêsu, nhờ sự trợ giúp của Thánh Thần Người. Công việc đó là trả lại công lý cho người nghèo, giải thoát người bị áp bức, an ủi người phiền muộn, tích cực đi tìm một trật tự xã hội mới, trong đó có những giải pháp thích đáng để giải quyết sự nghèo nàn vật chất, và trong đó người ta kiểm soát hữu hiệu hơn các lực lượng đang tìm cách ngăn cản những nỗ lực của người nghèo muốn giải thoát mình khỏi những điều kiện sống cơ cực và nô lệ. Một khi những điều này xuất hiện, là Nước Thiên Chúa đã có mặt trên đời này, dù Nước đó không phải là Nước của trần gian. Chính trong Nước ấy mà mọi lời hứa của các tiên tri được thực hiện trọn vẹn.
326. Trong ánh sáng Mạc khải, hoạt động kinh tế phải được xem xét và thực hiện như một lời đáp lại với lòng biết ơn tiếng gọi mà Chúa gửi đến cho mỗi người. Con người được đặt trong vườn Eđen để canh tác và giữ gìn nó, tận dụng nó trong giới hạn đã được xác định (x. St 2,16-17) và với sứ mạng là làm cho khu vườn ấy nên hoàn hảo (x. St 1,26-30; 2,15-16; Kn 9,2-3). Khi minh chứng sự cao cả và tốt lành của Đấng Tạo Hoá, con người tiến tới chỗ được tự do hoàn toàn, cũng là tình trạng Thiên Chúa đã kêu gọi con người tiến tới. Quản lý cho tốt các ân huệ đã lãnh nhận và các của cải vật chất là một hành vi công lý đối với bản thân mình và với người khác. Những gì đã lãnh nhận thì phải được sử dụng cách thích đáng, phải được duy trì và gia tăng, như dụ ngôn các nén bạc đã gợi ý cho chúng ta (x. Mt 25,14-30; Lc 19,12-17).
Phải đặt hoạt động kinh tế và sự tăng trưởng vật chất phục vụ con người và xã hội. Nếu người ta xả thân làm các việc ấy với lòng tin, cậy, mến của các môn đệ Đức Kitô, thì ngay cả kinh tế và tiến bộ cũng có thể biến thành những địa điểm cứu độ và thánh hoá. Vì trong các lĩnh vực này, người ta cũng có thể bày tỏ một tình yêu và một sự liên mang tính nhân bản hơn, và đồng thời có thể góp phần làm tăng trưởng một nhân loại mới, báo trước thế giới tương laia. Đức Giêsu tóm tắt tất cả những mạc khải trên đây bằng cách kêu gọi người tín hữu hãy trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa (x. Lc 12,21). Kinh tế cũng giúp ích cho mục tiêu này, khi người ta không phản bội chức năng của kinh tế là làm công cụ giúp phát triển toàn diện con người và xã hội, cũng như phát triển toàn diện phẩm chất nhân bản của đời sống.
327. Nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, chúng ta có thể hiểu đúng đắn sự phát triển xã hội, trong khuôn khổ của nền nhân bản toàn diện và liên đới. Về mặt này, suy tư thần học do huấn quyền xã hội của Giáo Hội đưa ra quả là đã đóng góp một cách hữu ích: “Niềm tin vào Đức Kitô Cứu Chuộc vừa soi sáng cho chúng ta biết tự bên trong đâu là bản chất của sự phát triển vừa hướng dẫn chúng ta cộng tác với người khác. Trong thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côlôxê, chúng ta đọc thấy Đức Kitô là ‘trưởng tử trong mọi loài thụ tạo’ và ‘mọi sự được tạo dựng là nhờ Người’ và cho Người (Cl 1,15-16). Thật vậy, ‘mọi sự tồn tại trong Người’ vì ‘Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình’ (c. 20). Một phần của kế hoạch thần linh ấy, đã bắt đầu từ đời đời trong Đức Kitô, là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, và lên đến tột đỉnh nơi Đức Kitô, là ‘trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại’ (c. 15-18), ngay trong lòng lịch sử của chúng ta – phần kế hoạch ấy được đánh dấu bởi những nỗ lực của cá nhân và tập thể chúng ta tìm cách nâng thân phận con người lên và khắc phục mọi trở ngại không ngừng xuất hiện trên đường đời. Bằng cách đó, kế hoạch của Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta thông phần vào sự viên mãn ‘đang hiện diện nơi Chúa Kitô’, cũng là sự viên mãn đang được Người truyền thông cho ‘thân thể Người, là Giáo Hội’ (c. 18; Ep 1,22-13). Đồng thời, Đức Kitô cũng khuất phục và cứu chuộc tội lỗi, là điều luôn luôn tìm giăng bẫy chúng ta và làm thiệt hại các thành quả do con người làm ra, qua sự ‘hoà giải’ của Người (x. Cl 1,20)”684.
b. Của cải có là để được chia sẻ
328. Của cải, dù được sở hữu một cách chính đáng, luôn luôn có mục tiêu phổ quát; bất cứ hình thức tích trữ nào không chính đáng đều trái đạo đức, vì như thế là công khai đi ngược lại mục tiêu phổ quát đã được Tạo Hoá ấn định cho mọi của cải. Sự cứu độ trong Kitô giáo là sự giải thoát toàn diện con người, tức là được giải thoát không những khỏi mọi nhu cầu mà còn khỏi mọi sở hữu. “Vì ham mê tiền bạc là cội rễ mọi điều xấu xa; chính vì có sự thèm muốn ấy mà nhiều người đã lạc xa đức tin” (1 Tm 6,10). Các Giáo phụ còn nhấn mạnh tới nhu cầu cần hoán cải và cần thay đổi lương tâm các tín hữu nhiều hơn là nhu cầu cần thay đổi các cơ chế xã hội và chính trị trong thời các ngài. Các ngài còn kêu gọi những ai hoạt động trong lĩnh vực kinh tế và có được của cải hãy xem mình chỉ là người quản lý những tài sản Thiên Chúa đã giao.
329. Của cải hoàn thành chức năng phục vụ con người khi chúng được hướng tới việc đem lại ích lợi cho người khác và cho xã hội685. Thánh Clementê thành Alexandria tự hỏi: “Chúng ta làm sao có thể làm điều tốt cho người lân cận khi chẳng ai trong chúng ta có chút của cải?”686. Còn theo quan điểm của Thánh Gioan Kim Khẩu, của cải thuộc về một số người để những người này lập được công trạng bằng cách chia sẻ cho người khác687. Của cải là một điều tốt xuất phát từ Thiên Chúa và phải được người sở hữu nó sử dụng và lưu thông thế nào cho cả người túng thiếu cũng được hưởng. Sự xấu xa lộ ra khi người ta tha thiết quá độ với của cải và tham lam tích trữ. Thánh Basiliô Cả kêu gọi người giàu hãy mở cửa nhà kho của mình và ngài khuyên họ: “Dòng nước lũ lớn chảy qua hàng ngàn kênh rạch để tràn ngập hết đất đai màu mỡ. Cũng thế, bằng hàng ngàn nẻo đường khác nhau, quý vị hãy làm sao cho của cải nhà mình đến được nhà những người nghèo túng”688. Thánh Basiliô giải thích: của cải tựa như nước lấy từ giếng: càng kín múc thường xuyên, nước càng trong, và nếu không sử dụng, nước trở nên vẩn đục689. Sau này thánh Gregoriô Cả cũng nói: người giàu chỉ là người quản lý những gì mình đang có; cho người nghèo những gì họ cần chính là một nhiệm vụ phải thi hành với lòng khiêm tốn, vì của cải không thuộc về người phân phát chúng. Kẻ nào giữ của cải lại cho riêng mình sẽ mắc tội; còn cấp phát cho những người túng thiếu là đã trả xong một món nợ690.
II. LUÂN LÝ VÀ KINH TẾ
330. Học thuyết xã hội của Giáo Hội rất nhấn mạnh những hệ luỵ luân lý của kinh tế. Trong một đoạn trích từ Thông điệp Quadragesimo Anno, Đức Giáo hoàng Piô XI có nói tới mối quan hệ giữa kinh tế và luân lý. “Dù khoa kinh tế và khoa luân lý sử dụng những nguyên tắc riêng của mỗi bên trong lĩnh vực của mình, nhưng thật sai lầm khi nói rằng trật tự kinh tế và trật tự luân lý hoàn toàn tách biệt và xa lạ với nhau đến nỗi trật tự kinh tế không hề lệ thuộc trật tự luân lý. Chắc hẳn luật kinh tế, dựa trên chính bản chất của các sự vật vật chất, trên khả năng của tinh thần và thể xác con người, đã xác định cho biết đâu là những giới hạn mà nỗ lực sản xuất của con người không được vượt qua, đâu là những giới hạn mà nỗ lực sản xuất của con người có thể đạt được trong địa hạt kinh tế, và đạt được bằng cách thức nào. Tuy rằng chính lý trí con người cho thấy rõ, dựa trên bản chất cá thể và xã hội của các sự vật và của con người, đâu là mục tiêu mà Thiên Chúa đã quy định cho toàn bộ đời sống kinh tế. Thế nhưng chỉ có luật luân lý, khi ra lệnh cho chúng ta tìm kiếm mục tiêu trên hết và sau hết trong toàn bộ hệ thống hoạt động của chúng ta, cũng như yêu cầu chúng ta phải tìm kiếm ngay trong mỗi hoạt động kinh tế những mục tiêu mà ai cũng biết là do tự nhiên, hay đúng hơn, do Thiên Chúa – tác giả của tự nhiên – đặt ra cho loại hình hoạt động ấy, và trong mối quan hệ có tôn ti trật tự (luật luân lý), làm cho những mục tiêu trước mắt phải lệ thuộc vào mục tiêu trên hết và sau hết của chúng ta”691.
331. Quan hệ giữa luân lý và kinh tế là quan hệ tất yếu, hay thực ra là quan hệ nội tại: hoạt động kinh tế và cách ứng xử có luân lý gắn bó mật thiết với nhau. Phân biệt luân lý với kinh tế tuy cần thiết nhưng không có nghĩa là tách rời hai địa hạt ấy, trái lại, chúng còn tương tác lên nhau một cách hết sức quan trọng. Cũng như trong lĩnh vực luân lý người ta phải cứu xét những lý do và đòi hỏi của kinh tế, thì trong lĩnh vực kinh tế người ta cũng phải cởi mở tiếp nhận các yêu cầu của luân lý: “Trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, người ta phải tôn trọng và phát huy phẩm giá và ơn gọi đầy đủ của con người, cũng như sự an sinh của toàn xã hội. Vì con người là nguồn cội, là trung tâm và là mục tiêu của toàn bộ đời sống kinh tế và xã hội”692. Dành cho các vấn đề riêng thuộc về kinh tế một sự quan tâm thích đáng không có nghĩa là loại bỏ hết và xem là phi lý tất cả những sự quan tâm khác về một lĩnh vực vượt trên kinh tế. Sở dĩ như thế là vì mục tiêu của kinh tế không nằm trong chính kinh tế, mà đúng hơn nó nằm trong bản chất được đặt định hướng đến con người và xã hội của kinh tế693. Thật vậy, dù xét trên bình diện khoa học hay thực tiễn, kinh tế không bao giờ được trao cho mục đích hoàn thành con người hay tạo ra một sự chung sống thích đáng cho con người. Đúng hơn, nhiệm vụ của kinh tế chỉ là thực hiện từng phần như sản xuất, phân phối và tiêu thụ các của cải vật chất và các dịch vụ.
332. Chiều hướng luân lý của kinh tế cho chúng ta thấy rằng hiệu năng kinh tế và việc đẩy mạnh sự phát triển của con người trong tình liên đới không phải là hai mục tiêu tách rời nhau hay phải chọn một trong hai, mà chỉ là một mục tiêu không thể phân chia. Luân lý – một phần tất yếu của đời sống kinh tế – không chống lại đời sống kinh tế, cũng không đứng trung lập với đời sống ấy: nếu luân lý ấy được gợi ý là do công lý và liên đới, thì đó chính là một nhân tố tạo ra hiệu năng xã hội trong khuôn khổ nền kinh tế ấy. Sản xuất hàng hoá là một nghĩa vụ cần phải thi hành cách hữu hiệu, bằng không các nguồn lực kể như đã bị phung phí. Mặt khác, chúng ta không thể chấp nhận đạt được mức tăng trưởng kinh tế bằng cách hy sinh nhiều con người, hy sinh cả một dân tộc hay một nhóm xã hội nào đó, bắt họ phải lâm cảnh túng thiếu. Việc làm gia tăng của cải – được chứng minh qua tình trạng hàng hoá và dịch vụ luôn có sẵn – và việc thoả mãn những đòi hỏi luân lý để các của cải và dịch vụ ấy được phân phối cách công bằng, hai việc này phải thúc đẩy con người nói riêng và xã hội nói chung thực hành đức tính căn bản là liên đới694, để trong tinh thần công lý và bác ái, chúng ta chống lại những “cơ cấu tội lỗi”695 ở bất cứ nơi nào chúng hiện diện. Đó là những cơ cấu tạo ra và duy trì sự nghèo đói, sự kém phát triển và suy thoái. Những cơ cấu này được tạo ra và được củng cố là do vô số hành vi ích kỷ của con người.
333. Nếu hoạt động kinh tế phải có tính luân lý, thì hoạt động ấy phải hướng tới mọi người và mọi dân tộc. Mọi người đều có quyền tham gia vào đời sống kinh tế và đều có nghĩa vụ tuỳ theo khả năng của mình mà đóng góp vào sự tiến bộ của quê hương mình và của toàn thể gia đình nhân loại696. Nếu mọi người đều có trách nhiệm về người khác tới một mức độ nào đó, thì mọi người cũng có nghĩa vụ dấn thân vào công cuộc phát triển kinh tế của hết mọi người697. Đây là một nghĩa vụ được thực hiện trong tình liên đới và công lý, nhưng đó cũng là phương cách hay nhất để đem sự tiến bộ kinh tế đến cho toàn thể nhân loại. Khi được thi hành theo đúng luân lý, hoạt động kinh tế trở thành sự phục vụ lẫn nhau giữa con người, được biểu hiện qua việc sản xuất hàng hoá và cung cấp các dịch vụ cần thiết cho sự phát triển của mỗi người; đồng thời nó sẽ trở thành cơ hội cho mỗi người thể hiện tình liên đới và sống lời mời gọi “hiệp thông với người khác mà Thiên Chúa đã nhắm tới khi tạo dựng con người”698. Nỗ lực sáng tạo và thực hiện các dự án kinh tế và xã hội có thể thúc đẩy một xã hội công bằng hơn và một thế giới nhân bản hơn. Đây quả là một thách thức khó khăn, nhưng đó cũng là một nghĩa vụ rất đáng tự hào cho tất cả những ai đang làm việc trong lĩnh vực kinh tế và đang có liên hệ với các khoa kinh tế699.
334. Kinh tế lấy việc phát triển sự giàu có và làm cho sự giàu có mỗi ngày một tăng lên, không chỉ về lượng mà cả về chất, làm mục tiêu của mình. Điều này thật đúng về mặt luân lý, nếu nó giúp con người được phát triển toàn diện trong sự liên đới và giúp xã hội, nơi mọi người sinh sống và làm việc, cũng được phát triển như thế. Thật vậy, không thể coi phát triển chỉ là một tiến trình tích luỹ của cải và các dịch vụ không hơn không kém. Ngược lại, sự tích luỹ, dù vì công ích, tự nó không phải là điều kiện đủ để mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Hiểu như thế, ta sẽ thấy tại sao huấn quyền xã hội của Giáo Hội đã cảnh báo cho chúng ta về sự giả dối đang ẩn đằng sau những sự phát triển chỉ nghiêng về số lượng: “tình trạng mọi mặt hàng vật chất có sẵn tới mức thái quá nhằm phục vụ cho ích lợi của một số tập thể trong xã hội sẽ làm cho dân chúng dễ dàng trở thành nô lệ cho sự ‘chiếm hữu’ và sự thoả mãn tức thời… Đây chính là cái được gọi là văn minh ‘tiêu thụ’ hay ‘chủ nghĩa tiêu thụ’”700.
335. Nhìn trong viễn tượng phát triển toàn diện và liên đới như thế, chúng ta sẽ biết quý trọng đúng mức việc đánh giá luân lý mà học thuyết xã hội của Giáo Hội cống hiến cho con người, liên quan đến nền kinh tế thị trường, hay đơn giản hơn, liên quan đến nền kinh tế tự do: “Nếu hiểu ‘chủ nghĩa tư bản’ là một hệ thống kinh tế nhìn nhận vai trò căn bản và tích cực của kinh doanh, nhìn nhận thị trường, quyền tư hữu và trách nhiệm về hậu quả đối với các phương tiện sản xuất, cũng như sự sáng tạo tự do của con người trong địa hạt kinh tế, thì câu trả lời về sự đánh giá chắc chắn là tích cực, dù có lẽ nên nói đó là nền “kinh tế thương mại”, “kinh tế thị trường”, hay đơn giản hơn là nền “kinh tế tự do”, thì thích hợp hơn. Còn nếu hiểu ‘chủ nghĩa tư bản’ là một hệ thống, trong đó tự do kinh tế không hề bị giới hạn trong một khuôn khổ pháp lý vững chắc mà khuôn khổ này lại đặt tự do kinh tế để phục vụ sự tự do của con người xét như một tổng thể và hệ thống này lại coi tự do kinh tế chỉ là một khía cạnh đặc biệt của sự tự do toàn thể, còn cốt lõi của sự tự do toàn thể này mới có tính cách đạo đức và tôn giáo, thì câu trả lời về sự đánh giá của Giáo Hội chắc chắn là tiêu cực”701. Theo đường hướng này, một quan điểm của Kitô giáo liên quan đến các điều kiện xã hội và chính trị của hoạt động kinh tế không phải chỉ được xác định qua những quy tắc luật lệ mà còn bao gồm cả phẩm chất luân lý và ý nghĩa luân lý của hoạt động kinh tế đó nữa.
Bài này đã được xem 2926 lần!