TÓM LƯỢC HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

445Công tác ngoại giao của Toà Thánh, thành quả của một cách thức làm việc từ xưa đã được thời gian minh chứng, chính là công cụ hoạt động không những để Giáo Hội được tự do (libertas Ecclesiae) mà còn để bảo vệ và phát huy phẩm giá con người, cũng như phục vụ một trật tự xã hội dựa trên các giá trị công lý, sự thật, tự do và tình yêu. “Dựa vào một quyền bẩm sinh nằm ngay trong chính sứ mạng tinh thần của mình và được đẩy mạnh do sự phát triển của các biến cố lịch sử trong nhiều thế kỷ qua, chúng tôi cũng gửi các sứ thần Toà Thánh đến với chính quyền tối cao của những nước mà trong đó Giáo hội Công giáo đã bám rễ sâu hay đang có mặt cách nào đó. Dĩ nhiên, đúng là các mục tiêu mà Giáo Hội và quốc gia theo đuổi thuộc về các trật tự khác nhau, và cả hai đều là những xã hội hoàn bị, vì thế có đủ các phương tiện riêng để hoạt động, đồng thời được tự trị trong lĩnh vực hoạt động riêng của mình. Tuy nhiên, cũng đúng là cả hai đều nhắm phục vụ ích lợi của một đối tượng chung là con người. Con người này được Thiên Chúa kêu gọi hưởng ơn cứu độ vĩnh cửu và được Thiên Chúa đặt trên trần gian để nhờ ơn Chúa giúp có thể đạt tới ơn cứu độ thông qua các việc mình làm, nhờ đó được hạnh phúc trong môi trường xã hội hoà bình”924. Ích lợi của dân tộc và của các cộng đồng nhân loại sẽ được đáp ứng nhờ việc đối thoại có tổ chức giữa Giáo Hội và chính quyền dân sự, điều này cũng được diễn tả qua việc ký kết những thoả ước song phương. Nhờ đối thoại như thế, các mối quan hệ hiểu biết lẫn nhau và cộng tác với nhau mới xuất hiện và mới được củng cố, cũng như ngăn chặn hay giải quyết được các cuộc tranh chấp. Mục đích của đối thoại là góp phần làm cho mỗi dân tộc và toàn thể nhân loại được tiến bộ trong công lý và hoà bình.

IV. SỰ CỘNG TÁC QUỐC TẾ ĐỂ GIÚP PHÁT TRIỂN

a. Cộng tác để bảo đảm quyền phát triển 

446Để giải quyết vấn đề phát triển, cần có sự cộng tác giữa các cộng đồng chính trị cá thể. “Các cộng đồng chính trị chi phối nhau và chúng ta có thể khẳng định rằng mỗi cộng đồng sẽ thành công trong việc phát triển của mình khi biết góp phần vào sự phát triển của các cộng đồng khác. Muốn điều đó xảy ra, điều thiết yếu là phải hiểu biết và cộng tác với nhau”925. Dường như không thể loại trừ hẳn tình trạng kém phát triển, như thể đó đã là bản án tử hình, nhất là phải nhìn nhận một sự thật là tình trạng ấy không phải chỉ là kết quả của những sự lựa chọn sai lầm của con người, mà còn là hậu quả của “các bộ máy kinh tế, tài chính và xã hội”926 và của “các cấu trúc tội lỗi”927, vốn cản trở sự phát triển đầy đủ của con người và các dân tộc.

Tuy nhiên, phải đối diện với các khó khăn này với một quyết tâm vừa mạnh mẽ vừa cương quyết, vì phát triển không phải chỉ là một khát vọng mà còn là một quyền lợi928, và cũng như mọi quyền lợi, nó cũng bao hàm một nghĩa vụ. “Cộng tác để phát triển con người toàn diện và phát triển tất cả mọi người là một nghĩa vụ của mỗi người đối với hết mọi người, và phải được cả bốn phương trời thế giới tham gia, từ Đông sang Tây, từ Bắc tới Nam”929. Như Huấn Quyền đã nhận xét, quyền phát triển là quyền dựa trên những nguyên tắc sau đây: gia đình nhân loại chỉ có một nguồn gốc và cùng chung một vận mệnh; phải có sự bình đẳng giữa mọi người và giữa mọi cộng đồng dựa trên phẩm giá con người; của cải trần thế dành cho hết mọi người; phải hiểu phát triển trong toàn bộ nội dung của nó; và phải lấy con người làm trọng tâm và phải liên đới với nhau.

447Học thuyết Xã hội Công giáo cổ vũ các hình thức cộng tác nào có thể giúp các nước nghèo và kém phát triển tham gia thị trường quốc tế. “Ngay trong những năm gần đây, người ta vẫn nghĩ rằng các nước nghèo nhất sẽ phát triển bằng cách đứng tách riêng khỏi thị trường thế giới và chỉ dựa vào các nguồn lực riêng của mình. Nhưng kinh nghiệm mới đây cho thấy, những nước nào làm như thế đều bị trì trệ và suy thoái, còn các nước phát triển được là các nước thành công trong việc tham gia vào các hoạt động kinh tế liên kết ở cấp độ quốc tế. Bởi đó, vấn đề chính ở đây có lẽ là làm sao đẩy mạnh việc tiếp cận thị trường thế giới cách công bằng, dựa trên nguyên tắc không phải đơn phương là khai thác các tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia này nhưng dựa vào việc sử dụng thích đáng nguồn nhân sự của các nước đó”930. Trong số những nguyên nhân góp phần lớn vào tình trạng chậm phát triển và nghèo đói, ngoài nguyên nhân không có khả năng tham gia vào thị trường thế giới, còn có nguyên nhân thất học, thiếu an toàn thực phẩm, thiếu các cơ sở hạ tầng và dịch vụ, thiếu các biện pháp thích đáng để bảo đảm việc chăm sóc sức khoẻ căn bản, thiếu nước sạch và thiếu vệ sinh, nạn tham nhũng, tình trạng không ổn định của các định chế và cả đời sống chính trị. Tại nhiều nước, có một mối dây liên hệ giữa tình trạng nghèo đói với tình trạng thiếu tự do, thiếu khả năng để đưa ra những sáng kiến trong lĩnh vực kinh tế, cũng như không có một nền hành chính quốc gia đủ khả năng để lập ra một hệ thống giáo dục và thông tin thích đáng.

448Tinh thần hợp tác quốc tế đòi mọi người không những phải có tư duy đúng đắn về thị trường, mà còn có khả năng nhận thức về bổn phận phải liên đới, bảo vệ công lý và bác ái phổ quát932. Thật vậy, có “một điều gì đó phải trả cho con người vì họ là con người, vì phẩm giá cao đẹp của con người”933. Hợp tác là con đường mà toàn thể cộng đồng thế giới phải bước vào, theo một quan niệm rất thích đáng về công ích đối với toàn thể gia đình nhân loại”934. Từ con đường cộng tác đó ta có thể thấy nhiều thành quả tích cực; chẳng hạn, gia tăng sự tín nhiệm vào tiềm năng của người nghèo, và do đó, vào tiềm năng của các nước nghèo, đồng thời việc phân phối của cải cũng được công bằng.

b. Đấu tranh chống nghèo đói 

449.Vào đầu thiên niên kỷ mới này, sự nghèo đói của hàng tỷ người nam cũng như nữ chính là “một vấn đề thách thức nhất cho các lương tâm con người cũng như các lương tâm Kitô hữu”935. Nghèo đói đặt ra một vấn đề đầy kịch tính về công lý dưới nhiều hình thức khác nhau và với những hậu quả khác nhau của nó. Tình hình nghèo đói mang đặc điểm là có sự tăng trưởng không bình đẳng, vì chưa nhìn nhận “quyền bình đẳng của mọi người được ngồi dự ‘trong bàn tiệc chung’”936. Nghèo đói như thế sẽ khiến chúng ta không thể thực hiện nền nhân bản trọn vẹn mà Giáo Hội hằng hy vọng và theo đuổi để các cá nhân và dân tộc được “là người hơn”937 và sống trong những điều kiện nhân bản hơn938.

Cuộc đấu tranh chống nghèo đói tìm được một động cơ mạnh mẽ khi biết rằng Giáo Hội chọn lựa và dành tình thương ưu tiên cho người nghèo939. Trong toàn bộ giáo huấn xã hội của mình, Giáo Hội không bao giờ mệt mỏi khi nhấn mạnh một số nguyên tắc căn bản của giáo huấn, mà trước nhất và trên hết là nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải940. Học thuyết Xã hội Công giáo liên tục tái xác nhận nguyên tắc liên đới, đòi người ta phải hành động để đẩy mạnh “ích lợi của mọi người và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với hết mọi người941. Ngay trong lúc đấu tranh chống nghèo đói, nguyên tắc liên đới phải luôn luôn đi kèm một cách thích hợp với nguyên tắc bổ trợ, vì nhờ nguyên tắc bổ trợ, chúng ta mới có thể thúc đẩy tinh thần sáng kiến, là nền tảng căn bản cho tất cả sự phát triển xã hội và kinh tế tại các nước nghèo942. Không nên coi người nghèo “như một vấn đề, mà như những con người có thể trở thành những nhà kiến thiết chính của một tương lai mới mẻ và mang tính người hơn cho mọi người”943.

c. Nợ nước ngoài

450Phải để ý tới quyền phát triển mỗi khi có dịp bàn tới các vấn đề có liên quan đến khủng hoảng nợ nần của nhiều quốc gia nghèo944. Nhiều nguyên nhân phức tạp thuộc đủ loại nằm trong nguồn gốc của khủng hoảng nợ nần. Ở cấp quốc tế đó là sự trôi nổi của tỷ giá hối đoái, của việc đầu cơ tài chính và chủ nghĩa thực dân mới trong kinh tế; còn trong nội bộ các nước nợ nần đó có thể là tham nhũng, quản lý lợi tức công cộng kém hay sử dụng sai các khoản vay tín dụng đã nhận được. Những nỗi đau khổ lớn nhất – có thể là do những vấn đề về cơ cấu cũng như hành vi cá nhân – lại giáng xuống những người dân tại các nước nghèo và nợ nần, là những người vốn không phải chịu trách nhiệm về tình trạng này. Cộng đồng quốc tế không thể không biết điều này: một đàng vẫn khẳng định nguyên tắc nợ thì phải trả, nhưng đàng khác, các giải pháp đưa ra phải làm sao không phương hại tới “quyền căn bản của các dân tộc là được tồn tại và tiến bộ”945.

CHƯƠNG MƯỜI: BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

I. CÁC KHÍA CẠNH THÁNH KINH

451Kinh nghiệm sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử chính là nền tảng làm nên đức tin của dân Chúa: “Chúng ta đã từng làm nô lệ cho vua Pharaô tại Ai Cập, nhưng Chúa đã dùng bàn tay mạnh mẽ dẫn đưa chúng ta ra khỏi Ai Cập” (Đnl 6,21). Đọc lại lịch sử, chúng ta có thể có một cái nhìn thoáng qua về quá khứ và khám phá ra Chúa đang hoạt động trong lịch sử ấy ngay từ ban đầu: “Tổ tiên tôi là một người Aram phiêu bạt” (Đnl 26,5); Thiên Chúa cũng nói về dân Ngài như sau: “Ta đã đem cha ông các ngươi là Abraham từ bên kia sông về” (Gs 24,3). Nhờ những nhận định ấy mà chúng ta có thể nhìn về tương lai một cách hy vọng, dựa vào lời hứa và giao ước mà Chúa liên tục lặp lại.

Người Israel sống niềm tin ấy trong không gian và thời gian của thế giới này, thế giới mà họ không hề coi là môi trường thù nghịch hay một chỗ xấu xa mà người ta cần được giải thoát, nhưng chính là ân huệ Chúa ban, là đất đai và kế hoạch Chúa giao cho họ quản lý và làm việc với tinh thần trách nhiệm của một con người. Thiên nhiên, một công trình sáng tạo của Thiên Chúa, không phải là một kẻ thù nguy hiểm. Chính Chúa đã làm nên mọi sự, và khi nhìn từng thụ tạo “Chúa đều thấy nó tốt đẹp” (x. St 1,4.10.12.18.21.25). Và Ngài đặt con người lên chóp đỉnh công trình sáng tạo mà Ngài thấy là “rất tốt đẹp đó” (St 1,31). Chỉ có con người, nam cũng như nữ, trong số mọi thụ tạo, được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh Ngài” (St 1,27). Chúa giao cho con người chịu trách nhiệm về toàn thể thụ tạo, bắt họ chăm lo sao cho thụ tạo được hài hoà và phát triển (x. St 1,26-30). Mối quan hệ hết sức đặc biệt của con người với Thiên Chúa chính là lý do giải thích tại sao cặp vợ chồng đầu tiên được đặt vào một vị thế ưu tiên như vậy trong trật tự sáng tạo.

452Mối quan hệ của con người với thế giới là một yếu tố cấu thành lai lịch của con người. Mối quan hệ này nối tiếp kết quả của một mối quan hệ khác còn sâu đậm hơn, đó là quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho con người trở thành cộng sự của Ngài trong cuộc đối thoại. Chỉ khi đối thoại với Thiên Chúa, con người mới tìm ra sự thật của mình, và từ sự thật này con người mới có được nguồn cảm hứng và tìm được các chuẩn mực để lập kế hoạch cho tương lai của thế giới, mà biểu tượng là khu vườn Chúa đã trao cho con người trông coi và canh tác (x. St 2,15). Ngay cả khi phạm tội rồi, con người cũng không mất bổn phận ấy, dù có thể kể từ đó thế giới này đã bị tội lỗi đè nặng với bao khổ đau và vất vả (x. St 3,17-19).

Công trình sáng tạo luôn luôn là một đối tượng được dân Israel ca ngợi trong kinh nguyện của mình: “Ôi lạy Chúa, công trình Ngài quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan” (Tv 104,24). Còn cứu độ được coi là cuộc tạo dựng mới, tái lập lại sự hài hoà và tiềm năng phát triển đã bị tội làm hư hao: “Ta sẽ tạo dựng trời mới đất mới” (Is 65,17), trong đó “sa mạc sẽ trở nên vườn cây ăn trái… và đức công chính [sẽ] ở trong vườn cây ăn trái ấy… Rồi dân Ta sẽ sống an bình” (Is 32,15-18).

453Sự cứu độ dứt khoát mà Chúa ban cho toàn thể nhân loại thông qua Con của Ngài sẽ không xảy ra ngoài thế giới này. Đã bị tội làm thương tổn nên thế giới cần phải trải qua một sự thanh tẩy tận gốc rễ (x. 2 Pr 3,10) để trở thành một thế giới được đổi mới (x. Is 65,17; 66,22; Kh 21,1), và sau cùng trở thành nơi cho “công chính ngự trị” (2 Pr 3,13).

Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu đã tận dụng các yếu tố tự nhiên. Không những Người diễn giải về thiên nhiên cách thấu đáo, nói về thiên nhiên bằng hình ảnh và dụ ngôn, mà Người còn làm chủ thiên nhiên nữa (x. đoạn kể Đức Giêsu dẹp yên bão tố trong Mt 14,22-33; Mc 6,45-52; Ga 6,16-21). Chúa đã bắt thiên nhiên phục vụ kế hoạch cứu độ của Người. Người yêu cầu các môn đệ nhìn thẳng vào sự vật, mùa màng và con người với thái độ tin tưởng của trẻ thơ luôn biết rằng mình không bao giờ bị người Cha an bài bỏ rơi (x. Lc 11,11-13). Thay vì làm nô lệ cho các sự vật, người môn đệ Đức Giêsu phải biết cách sử dụng chúng để đem lại sự chia sẻ và tình huynh đệ (x. Lc 16,9-13).

454Việc Đức Giêsu bước vào lịch sử thế giới đạt tới điểm tận cùng trong mầu nhiệm Vượt Qua; trong mầu nhiệm này, chính thiên nhiên cũng tham dự vào thảm kịch Con Chúa bị khai trừ và vào chiến thắng của Đấng Phục Sinh (x. Mt 27,45.51; 28,2). Khi vượt qua cái chết và ghép vào đó ánh vinh quang mới mẻ của sự phục sinh, Đức Giêsu đã khai mở một thế giới mới, trong đó mọi sự đều phục tùng Người (x. 1 Cr 15,20-28); Người cũng tái tạo lại những mối quan hệ trật tự và hài hoà đã bị tội phá vỡ. Đã biết giữa con người và thiên nhiên đã xảy ra sự mất cân bằng, thì cũng phải biết rằng nơi Đức Giêsu, con người và thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, đến nỗi bất cứ ai nhận thức được tình thương Thiên Chúa đều có thể tìm lại được bình an đã mất. “Bởi đó, người nào ở trong Đức Kitô, người ấy là thụ tạo mới; cái cũ đã qua, và này cái mới đã đến” (2 Cr 5,17). Thiên nhiên đã được tạo dựng trong Ngôi Lời, thì cũng do Ngôi Lời đã làm người ấy mà thiên nhiên được hoà giải với Thiên Chúa và được trả lại ơn bình an (x. Cl 1,15-20).

455Không những con người nội tâm chúng ta được tái tạo một lần nữa, mà toàn thể bản tính của con người – một hữu thể có thân xác – cũng đã được quyền năng cứu độ của Đức Kitô chạm tới. Toàn thể thụ tạo đều tham gia vào trào lưu canh tân phát xuất từ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, dù thụ tạo vẫn còn phải chờ được giải thoát hoàn toàn khỏi sự hư nát, thụ tạo vẫn rên rỉ trong lao nhọc (x. Rm 8,19-23) và chờ đợi việc khai sinh “trời đất mới” (Kh 21,1), tức là sự cứu độ mỹ mãn, được ban trong ngày tận thế. Còn tạm thời lúc này, không có gì đứng ngoài tầm ảnh hưởng của ơn cứu độ đó. Dù đang sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, người Kitô hữu luôn được kêu gọi để phục vụ Đức Kitô, để sống theo Thần Khí của Người, rồi nhờ được hướng dẫn bởi tình yêu – là nguyên lý của đời sống mới – họ sẽ đưa thế giới và con người trở về lại vận mệnh nguyên thuỷ: “dù… cả thế giới này, sự sống hay sự chết, hiện tại hay tương lai… tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3,22-23).

II. CON NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ CỦA THỤ TẠO

456Quan điểm của Thánh Kinh sẽ soi sáng cho người Kitô hữu biết phải có thái độ nào trong việc sử dụng trái đất, cũng như đối với các tiến bộ của khoa học và kỹ thuật. Công đồng Vatican II khẳng định con người “có lý khi nhận định rằng nhờ trí khôn của mình, con người vượt lên trên vũ trụ vật chất, vì đã chia sẻ ánh sáng của trí khôn Thiên Chúa”946. Các Nghị phụ Công đồng đã nhìn nhận các tiến bộ do sự chuyên cần trau dồi tài năng của con người qua bao thế kỷ, bất kể trong lĩnh vực khoa học thực nghiệm, các ngành công nghệ hay trong các bộ môn nghệ thuật tự do947. Hiện nay, “nhất là với sự giúp đỡ của khoa học và công nghệ, con người đã mở rộng quyền làm chủ của mình gần như trên toàn thể thiên nhiên và còn tiếp tục đi xa hơn nữa”948.

Vì con người, “được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, đã nhận được mệnh lệnh chinh phục trái đất và mọi sự chứa đựng trong đó, đồng thời cai trị thế giới trong công lý và thánh thiện; nhờ thi hành mệnh lệnh ấy, con người và toàn thể sự vật được liên kết với Đấng mà mọi người nhìn nhận là Chúa Tể và Tạo Hoá muôn loài. Như thế, khi đặt mọi sự vào tay con người là danh Chúa được tôn vinh trên khắp trái đất. [Công đồng dạy rằng] qua bao thế kỷ, con người đã lao động để cải thiện hoàn cảnh sống của mình nhờ những nỗ lực rất lớn của cá nhân lẫn tập thể. Đối với những tín hữu, điểm sau đây đã rõ ràng: tự bản thân nó, hoạt động cải thiện này của con người phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa”949.

Bài này đã được xem 2987 lần!

Pages ( 35 of 54 ): <1 ... 3334 35 3637 ... 54>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]