470. Các chương trình phát triển kinh tế cần phải cẩn thận lưu ý tới “nhu cầu tôn trọng sự toàn vẹn và chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên”989, vì các tài nguyên thiên nhiên thì có hạn, thậm chí có một số tài nguyên không thể tái tạo được. Nhịp độ khai thác thiên nhiên hiện nay đang làm phương hại trầm trọng tới nguồn dự trữ của một số tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ hiện nay lẫn tương lai990. Muốn có những giải pháp cho vấn đề sinh thái thì hoạt động kinh tế cần phải tôn trọng môi trường ở mức cao, bằng cách dung hoà nhu cầu phát triển kinh tế với nhu cầu bảo vệ môi trường. Mọi hoạt động kinh tế có sử dụng tài nguyên thiên nhiên đều phải quan tâm tới việc bảo vệ môi trường và phải dự kiến những phí tổn kèm theo, điều này đã trở thành “một yếu tố quan trọng trong chi phí thật sự của hoạt động kinh tế”991. Trong bối cảnh này, người ta sẽ xem xét các mối quan hệ giữa hoạt động của con người với những thay đổi về khí hậu, là những quan hệ hết sức phức tạp cần được theo dõi kịp thời và thường xuyên trên các bình diện khoa học, chính trị và pháp lý, quốc gia và quốc tế. Khí hậu là một tài sản cần phải được bảo vệ; nó nhắc nhở các người tiêu thụ và những ai tham gia hoạt động công nghiệp hãy có ý thức trách nhiệm nhiều hơn về thái độ cư xử của mình992.
Một nền kinh tế biết tôn trọng môi trường sẽ không lấy việc gia tăng tối đa lợi nhuận làm mục tiêu duy nhất của mình, vì việc bảo vệ môi trường không thể được bảo đảm nếu chỉ dựa trên những tính toán tài chính giữa phí tổn bỏ ra và lợi nhuận thu vào. Môi trường là một trong các tài sản không thể nào được bảo vệ hay được phát huy cách thích đáng chỉ nhờ các lực lượng thị trường993. Mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia đã phát triển, phải ý thức bổn phận cấp thiết là xem xét lại cách sử dụng tài nguyên thiên nhiên của mình. Tìm ra những phương cách mới để làm giảm tác động ảnh hưởng trên môi trường, do việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, là điều rất đáng được cổ vũ.
Cần phải dành sự chú ý đặc biệt cho các vấn đề phức tạp liên quan đến các nguồn năng lượng994. Các tài nguyên không thể tái tạo, mà các nước công nghiệp hoá cao và các nước mới công nghiệp hoá đang khai thác, cần phải dành để phục vụ cho toàn thể nhân loại. Đứng trên quan điểm luân lý, dựa trên sự công bằng và tình liên đới giữa các thế hệ, chúng ta cần tiếp tục phát hiện những nguồn năng lượng mới, phát triển các nguồn thay thế và nâng cao mức an toàn của năng lượng hạt nhân, thông qua sự đóng góp của cộng đồng khoa học995. Trong bối cảnh năng lượng có liên hệ tới sự phát triển và môi trường, việc sử dụng năng lượng cần phải được các quốc gia, cộng đồng quốc tế và các nhà kinh tế đứng ra chịu trách nhiệm. Người ta phải luôn luôn dựa vào công ích toàn cầu để soi sáng và định hướng trách nhiệm ấy.
471. Mối quan hệ của những dân bản địa với đất đai của họ và tài nguyên là một điều rất đáng chú ý, vì đó là cách biểu hiện cốt yếu nhất bản sắc của họ996. Vì những nguồn lợi lớn lao về công – nông nghiệp hay vì tiến trình đồng hoá và đô thị hoá quá cao, nên nhiều người trong số các dân này đã đành để mất hay liều mất đất đai mà họ đang sống trên đó997, những mảnh đất đã từng gắn chặt với ý nghĩa của cuộc đời họ998. Quyền lợi của các dân bản địa cần phải được bảo vệ cách thích đáng999. Các dân tộc này cho ta một điển hình về đời sống hài hoà với môi trường mà họ đã rất quen thuộc và đã bảo tồn từ bấy lâu nay1000. Kinh nghiệm đăc biệt của họ, vốn là một nguồn di sản tinh thần không thể thay thế được cho toàn thể nhân loại, đang có nguy cơ bị đánh mất cùng với môi trường đã khai sinh ra họ.
b. Sử dụng công nghệ sinh học
472. Trong những năm gần đây, người ta đã đặt ra những vấn đề cấp bách liên quan đến việc sử dụng các hình thức mới của khoa công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, y học và bảo vệ môi trường. Những khả năng mới do các kỹ thuật sinh học và sinh học di truyền hiện hành mang lại chính là nguồn vừa đem lại hy vọng và phấn khởi vừa gây ra sự cảnh giác và thù nghịch. Việc ứng dụng các kiểu công nghệ sinh học khác nhau, tính cách có thể chấp nhận chúng theo quan điểm luân lý, những hậu quả do chúng gây ra cho sức khoẻ con người và ảnh hưởng của chúng trên môi trường và trên nền kinh tế chính là các đề tài được nghiên cứu thấu đáo và tranh luận gắt gao. Đây là những vấn đề đang gây tranh cãi, mà các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu, các nhà chính trị và các nhà lập pháp, các nhà kinh tế và các nhà môi trường học, cũng như các nhà sản xuất và các người tiêu dùng cần phải tham gia vào cuộc. Các Kitô hữu không được thờ ơ với các vấn đề này, vì họ nhận thức được tầm quan trọng của các giá trị đang bị lâm nguy1001.
473. Quan điểm Kitô giáo về thụ tạo đưa ra một phán đoán tích cực về khả năng chấp nhận việc con người can thiệp vào thiên nhiên, vốn cũng bao gồm các sinh vật khác, đồng thời kêu gọi mạnh mẽ về tinh thần trách nhiệm1002. Thật vậy, thiên nhiên không phải là một thực tại thiêng liêng hay thần linh mà con người không được can thiệp vào. Nhưng đúng hơn, thiên nhiên là một món quà được Tạo Hoá ban cho cộng đồng nhân loại, được giao phó cho trí khôn và trách nhiệm luân lý của con người, cả nam lẫn nữ. Vì thế, con người không hề hành động sai trái khi phải can thiệp để sửa đổi một vài đặc điểm hay tính chất của chúng do lòng tôn trọng trật tự, vẻ đẹp và sự hữu ích của các sinh vật, cũng như vai trò của chúng trong hệ sinh thái. Những sự can thiệp nào của con người mà làm hại các sinh vật hay môi trường thiên nhiên thì đều đáng bị lên án, còn những sự can thiệp nào giúp cải thiện chúng đều đáng ca ngợi. Việc sử dụng các kỹ thuật sinh học và sinh học di truyền sao cho có thể chấp nhận được chỉ là một phần trong vấn đề đạo đức: cũng như đối với mọi cách ứng xử của con người, người ta cũng cần đánh giá cho đúng những lợi ích thật cũng như những hậu quả có thể mang lại rủi ro. Mỗi khi có những sự can thiệp bằng khoa học và công nghệ nào có thể tác động mạnh mẽ và phổ biến trên các cơ thể sống, thậm chí có khả năng tác động lâu dài, người ta không thể hành động một cách nhẹ dạ hay vô trách nhiệm.
474. Các công nghệ sinh học hiện đại đều có ảnh hưởng mạnh mẽ trên bình diện xã hội, kinh tế và chính trị, ở cấp quốc gia và quốc tế. Người ta cần phải đánh giá chúng theo những tiêu chuẩn đạo đức, mà những tiêu chuẩn đạo đức này phải luôn luôn hướng dẫn các hoạt động và các mối quan hệ của con người trong lĩnh vực xã hội, kinh tế và chính trị1003. Nhất là phải xét đến các tiêu chuẩn của công lý và liên đới. Các cá nhân và các tập thể tham gia vào việc nghiên cứu và thương mại hoá lĩnh vực công nghệ sinh học cần phải tuân thủ đặc biệt các tiêu chuẩn ấy. Trong bất cứ trường hợp nào, người ta cũng phải tránh đừng để mình rơi vào sai lầm khi tin rằng chỉ có việc phổ biến các lợi ích có liên quan đến các kỹ thuật mới của công nghệ sinh học là có thể giải quyết được các vấn đề cấp bách như nghèo đói và chậm phát triển, là những vấn đề đang hành hạ nhiều quốc gia trên hành tinh này.
475. Trong tinh thần liên đới quốc tế, cần phải sử dụng các biện pháp khác nhau đối với việc ứng dụng các công nghệ sinh học mới. Trước hết, phải tạo điều kiện để có sự trao đổi thương mại cách công bằng, không áp đặt những điều khoản bất công. Tuy nhiên, đẩy mạnh sự phát triển của các dân tộc bị thiệt thòi nhất sẽ không có kết quả hay sẽ không xác thực, nếu người ta rút gọn việc phát triển vào việc trao đổi các hàng hoá không hơn không kém. Cần cổ vũ việc phát huy sự tự trị cần thiết cho khoa học và công nghệ về phía các dân tộc ấy, đẩy mạnh sự trao đổi kiến thức công nghệ và khoa học, đồng thời chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển.
476. Liên đới cũng có nghĩa là kêu gọi các nước đang phát triển phải gánh lấy trách nhiệm, đặc biệt các nhà lãnh đạo chính trị của các nước ấy, để xúc tiến các chính sách thương mại có lợi cho người dân của họ và xúc tiến việc trao đổi công nghệ có thể giúp cải thiện các điều kiện cung cấp lương thực và sức khoẻ. Trong các quốc gia ấy, cần gia tăng đầu tư nghiên cứu, chú ý đặc biệt tới các đặc điểm riêng và nhu cầu riêng của lãnh thổ và dân cư của các quốc gia này, nhất là phải ghi nhớ rằng một số nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh học, dù có thể có tiềm năng về lợi ích, nhưng chỉ cần đầu tư ở mức độ vừa phải. Để đạt mục đích này, nên thành lập các cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm bảo vệ công ích bằng cách xử lý các rủi ro một cách cẩn thận.
477. Các nhà khoa học và kỹ thuật tham gia vào lĩnh vực công nghệ sinh học được mời gọi hãy làm việc một cách thông minh và kiên trì để tìm ra những giải pháp tốt nhất cho các vấn đề nghiêm trọng và khẩn cấp như vấn đề cung cấp lương thực và chăm sóc sức khoẻ. Họ không được quên rằng hoạt động của họ có liên quan đến các tài nguyên – sống động cũng như vô tri vô giác – thuộc về di sản của nhân loại và cũng được dành cho các thế hệ tương lai. Đối với người tín hữu, đây còn là một vấn đề liên quan đến quà tặng đã được Tạo Hoá ban cho và phó thác cho trí khôn và tự do của con người, và chính trí khôn và tự do này cũng là những món quà từ trời cao ban tặng. Chúng ta hy vọng rằng các nhà khoa học sẽ sử dụng nghị lực và khả năng của mình vào việc nghiên cứu ấy – được biểu hiện bằng sự nhiệt tình và được hướng dẫn bởi một lương tâm trong sáng và trung thực1004.
478. Các chủ doanh nghiệp và các giám đốc của các cơ quan công cộng tham gia vào việc nghiên cứu, sản xuất và mua bán các sản phẩm làm ra từ các công nghệ sinh học mới cần quan tâm không chỉ tới lợi nhuận chính đáng mà cả tới công ích nữa. Nguyên tắc này, luôn đúng cho hết mọi hình thức hoạt động kinh tế, trở nên quan trọng đặc biệt cho các hoạt động liên quan đến việc cung cấp lương thực, thuốc men, chăm sóc sức khoẻ và môi trường. Bằng những quyết định của mình, các chủ doanh nghiệp cũng như các giám đốc của các cơ quan công cộng tham gia vào lĩnh vực này có thể dẫn dắt những bước tiến triển trong lĩnh vực công nghệ sinh học, đưa chúng tới những mục tiêu đầy hứa hẹn, như chống lại nghèo đói, đặc biệt tại các nước nghèo hơn, chống lại bệnh tật và bảo vệ hệ sinh thái là gia sản chung của hết mọi người.
479. Các nhà chính trị, lập pháp và quản lý hành chính phải chịu trách nhiệm về việc đánh giá các lợi ích tiềm tàng và rủi ro có thể xảy ra khi sử dụng công nghệ sinh học. Một điều không ai muốn là những quyết định của họ, ở cấp quốc gia hay quốc tế, bị áp đặt bởi sức ép từ những tập thể có đặc quyền đặc lợi. Chính quyền cũng phải tạo điều kiện cho có một công luận được thông tin đúng đắn, để đưa ra những quyết định phù hợp nhất với công ích.
480. Các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực thông tin cũng có một nhiệm vụ quan trọng, mà họ cần thi hành một cách thận trọng và khách quan. Xã hội chờ đợi những thông tin đầy đủ và khách quan, có thể giúp các công dân có được một dư luận đúng đắn về các sản phẩm của công nghệ sinh học, trước hết vì đây là một vấn đề có liên quan trực tiếp tới họ, với tư cách là người tiêu thụ có thể sẽ dùng các sản phẩm ấy. Cần phải tránh để không rơi vào cơn cám dỗ của những thông tin hời hợt, được thổi phồng lên do quá bồng bột hay do hốt hoảng vô cớ.
c. Môi trường và việc chia sẻ của cải
481. Đối với vấn đề sinh thái, giáo huấn xã hội Công giáo nhắc lại rằng của cải trên trái đất là do Thiên Chúa tạo thành để mọi người sử dụng cách khôn ngoan. Chúng phải được chia sẻ một cách công bằng, phù hợp với công lý và bác ái. Vấn đề chủ yếu ở đây là phải ngăn chặn sự bất công trong việc tích trữ các tài nguyên: tham lam, dù là cá nhân hay tập thể, luôn luôn là điều đi ngược với trật tự tạo thành1005. Các vấn đề sinh thái hiện nay đã mang chiều hướng toàn cầu và chỉ có thể được giải quyết cách hữu hiệu thông qua sự hợp tác quốc tế, bảo đảm cho có sự phối hợp rộng rãi hơn trong việc sử dụng các tài nguyên của địa cầu.
482. Khủng hoảng môi trường và sự nghèo đói là những vấn đề có liên quan đến cả một tổng thể các nguyên nhân phức tạp và bi đát, mà chúng ta có thể giải quyết được dựa vào nguyên tắc của cải là dành cho hết mọi người, và đây chính là một định hướng văn hoá và luân lý căn bản. Khủng hoảng môi trường hiện nay có tác động đặc biệt đến những người nghèo nhất, bất kể họ đang sống trong những vùng đất đang bị xói mòn và bị sa mạc hoá, hoặc đang bị lôi kéo vào các cuộc xung đột vũ trang hay bị cưỡng bách nhập cư, hoặc vì họ không có phương tiện công nghệ và kinh tế để tự bảo vệ mình khỏi những thiên tai khác.
Biết bao nhiêu người nghèo ấy đang sống trong các khu ngoại ô bị ô nhiễm của các thành phố lớn, trong các nơi ở tạm hay trong các khu chung cư to lớn (khu nhà ổ chuột, khu phố thùng thiếc, khu nhà nghèo bị an ninh theo dõi, khu favelas) gồm những căn nhà đang xuống cấp trầm trọng và không an toàn. Mỗi khi cần tái định cư những người ấy, để họ khỏi phải chịu hết đau khổ này đến đau khổ khác, cần cho họ biết trước các thông tin cần thiết và được quyền lựa chọn nơi ăn ở tương xứng; những người bị liên luỵ trực tiếp phải được tham gia vào tiến trình tái định cư này.
Ngoài ra, cũng cần nhớ đến tình cảnh của những quốc gia đang phải chịu thua thiệt do những quy luật thương mại quốc tế bất công, và những quốc gia khan hiếm những hàng hoá chủ lực, lại bị gánh nặng nợ nước ngoài gây thêm bi đát. Trong những tình trạng thiếu thốn và đói nghèo như thế, người ta không thể nào tránh khỏi việc khai thác cật lực và thái quá môi trường.
483. Giữa sự phát triển của các nước nghèo nhất, sự thay đổi dân số và việc sử dụng bền vững môi trường có một mối quan hệ chặt chẽ, nhưng không được lấy đó làm chiêu bài để đưa ra những lựa chọn chính trị và kinh tế làm hại tới phẩm giá con người. Tại các nước đã phát triển đang có tình trạng “giảm sút tỷ lệ sinh sản, gây ảnh hưởng tới độ tuổi trung bình của dân số, thậm chí không thể đổi mới dân số về mặt sinh học”1006. Ở những nước đang phát triển thì lại khác, với mức dân số ngày càng gia tăng. Mặc dù đúng là sự phân phối không đồng đều về dân số và các nguồn tài nguyên có sẵn sẽ gây cản trở cho việc phát triển và cho việc sử dụng bền vững môi trường, tuy nhiên cũng phải nhìn nhận rằng tăng trưởng dân số là điều hoàn toàn thích hợp với sự phát triển toàn diện và được chia sẻ cho hết mọi người1007. Hầu như ai ai cũng đồng ý rằng chính sách dân số chỉ là một phần trong toàn bộ chiến thuật phát triển toàn diện. Vì thế, mỗi khi bàn cãi về các chính sách dân số, chúng ta phải luôn nhớ đến sự phát triển thực tế và theo dự kiến của các quốc gia và các vùng. Đồng thời, cũng không thể không xét đến chính bản chất của những gì được gọi là ‘phát triển’. Sự phát triển nào xứng đáng với danh nghĩa của mình đều phải là sự phát triển toàn diện, tức là phải hướng tới ích lợi thật của mỗi người và của con người toàn diện”1008.
484. Nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải cũng được áp dụng cách tự nhiên cho vấn đề nước, mà Thánh Kinh coi là biểu tượng của sự thanh tẩy (x. Tv 51,4; Ga 13,8) và của sự sống (x. Ga 3,5; Gl 3,27). “Là ơn Chúa ban, nước là thành phần cơ bản tối cần thiết đối với việc sống còn; vì thế, ai cũng có quyền đối với nước”1009. Thoả mãn nhu cầu của hết mọi người, nhất là những người đang nghèo đói, chính là nguyên tắc hướng dẫn việc sử dụng nước và những dịch vụ có liên quan đến nước. Việc không có đầy đủ nước uống an toàn ảnh hưởng đến an sinh của đông đảo dân chúng, đồng thời là nguyên nhân của bệnh tật, đau khổ, xung đột, nghèo đói và cảcái chết. Để giải quyết vấn đề này cho thích đáng, “cần phải đặt mình trong bối cảnh cụ thể để lập ra những tiêu chuẩn luân lý được đặt nền tảng chính xác trên giá trị của sự sống và sự tôn trọng các quyền lợi và phẩm giá của mọi người”1010.
Bài này đã được xem 2890 lần!