TÓM LƯỢC HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

485. Tự chính bản chất của nó, nước không thể được xem như một trong nhiều hàng hoá của con người; nó cần phải được sử dụng cách hợp lý và liên đới với những người khác. Theo truyền thống, việc phân phối nước là trách nhiệm của các cơ quan chính quyền, vì nước được coi là một tài sản công. Dù việc phân phối nước có được giao cho khu vực tư nhân, thì nước vẫn được coi như là một tài sản công. Quyền có nước1011, cũng như các quyền khác của con người, được đặt trên nền tảng là phẩm giá con người, chứ không phải dựa trên bất cứ việc đánh giá đơn thuần theo định lượng nào mà coi nước chỉ như một hàng hoá kinh tế không hơn không kém. Không có nước, sự sống bị đe doạ. Thế nên, quyền có nước uống an toàn là quyền của mọi người trên thế giới và là quyền không thể chuyển nhượng.

d. Những lối sống mới

486Những vấn đề sinh thái nghiêm trọng đòi mọi người phải thay đổi hữu hiệu cách suy nghĩ để đón nhận những lối sống mới1012; “theo những lối sống này, việc tìm kiếm chân, thiện, mỹ và hiệp thông với người khác vì công ích sẽ là những nhân tố quyết định cho những việc lựa chọn để tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư”1013. Những lối sống này sẽ được xây dựng dựa trên những đức tính thanh đạm, điều độ và tự chủ ở cấp cá nhân lẫn cấp xã hội. Cần phải dẹp bỏ cái logic chỉ biết có tiêu thụ, đồng thời phải xúc tiến các hình thức sản xuất nông nghiệp và công nghiệp biết tôn trọng trật tự sáng tạo và thoả mãn các nhu cầu căn bản của mọi người. Được duy trì bằng việc nhận thức lại sự lệ thuộc lẫn nhau giữa mọi người trên trái đất, những thái độ vừa nói sẽ góp phần loại bỏ nhiều nguyên nhân gây ra các thảm hoạ sinh thái cũng như bảo đảm khả năng đáp ứng nhanh chóng khi có những thảm hoạ ấy xảy ra cho các dân tộc và lãnh thổ1014. Người ta không được đối phó vấn đề sinh thái chỉ vì những viễn tượng đáng sợ mà sự huỷ hoại môi trường mang lại; nhưng đúng hơn vấn đề sinh thái phải trở thành động cơ mạnh mẽ thúc đẩy mọi người liên đới thực sự với nhau trên phạm vi toàn cầu.

487Thái độ điển hình cho lối xử sự của con người trong mối quan hệ với thụ tạo chính là thái độ biết ơn và quý trọng; thật vậy, thế giới mạc khải mầu nhiệm một Thiên Chúa sáng tạo và bảo vệ công trình sáng tạo. Nếu gạt bỏ mối quan hệ với Thiên Chúa sang một bên, thiên nhiên kể như đã bị tước mất ý nghĩa sâu xa của nó và sẽ trở nên nghèo nàn. Ngược lại, nếu thiên nhiên được tái khám phá trong chiều hướng như là thụ tạo của nó, thì các ngả đường liên lạc với thiên nhiên có thể được thiết lập, các ý nghĩa phong phú và tượng trưng của nó có thể được hiểu ra, chúng sẽ giúp ta bước vào lĩnh vực huyền nhiệm của nó. Và lĩnh vực này sẽ mở con đường của con người đến với Thiên Chúa, Đấng tạo thành trời đất. Thế giới sẽ xuất hiện trước mắt con người như một bằng chứng về Thiên Chúa, là nơi bày tỏ quyền năng sáng tạo, an bài và cứu chuộc của Ngài.

CHƯƠNG MƯỜI MỘT: CỔ VŨ HOÀ BÌNH

I. CÁC KHÍA CẠNH THÁNH KINH

488Trước khi là ân huệ Chúa ban cho con người và là dự phóng của con người phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, hoà bình trước hết là thuộc tính căn bản của Thiên Chúa: “Đức Chúa là sự bình an” (Tp 6,24). Thụ tạo – phản ánh vinh quang Thiên Chúa – luôn khao khát hoà bình. Thiên Chúa đã tạo ra tất cả những gì đang hiện hữu, và mọi thụ tạo làm nên một tổng thể hài hoà mà phần nào cũng tốt đẹp (x. St 1,4,10.18.21.25.31). Hoà bình được xây dựng dựa trên mối quan hệ căn bản giữa mọi người với Thiên Chúa, một quan hệ được đánh dấu bằng sự công chính (x. St 17,1). Vì con người đã làm đảo lộn trật tự thần thánh do một hành vi chủ ý, nên thế giới đã trải qua việc đổ máu và chia rẽ. Bạo lực bắt đầu xuất hiện trong các mối quan hệ liên vị (x. St 4,1-16) và trong các mối quan hệ xã hội (x. St 11,1-9). Hoà bình và bạo lực không thể đi đôi với nhau; nơi nào có bạo lực, nơi đó không thể có Thiên Chúa (x. 1 Bn 22,8-9).

489Theo mạc khải Thánh Kinh, hoà bình là một điều gì lớn lao hơn nhiều chứ không đơn giản chỉ là vắng bóng chiến tranh; hoà bình nói lên cuộc sống sung mãn (x. Mch 2,5). Thay vì là công lao của bàn tay con người, hoà bình là một trong những ân huệ cao cả nhất mà Chúa ban cho mọi người, nam cũng như nữ, và vì thế, nó đòi chúng ta phải tùng phục kế hoạch của Thiên Chúa. Hoà bình là kết quả của phúc lành Chúa ban cho dân Ngài: “Đức Chúa đoái nhìn đến các ngươi và ban cho các ngươi sự bình an” (Ds 6,26). Hoà bình sẽ mang lại sự sung túc (x. Is 48,19), an vui (x. Is 48,18), thịnh vượng (x. Is 54,13), hết lo sợ (x. Lv 26,6) và niềm vui sâu xa (x. Tv 12,20).

490Hoà bình là mục đích của cuộc sống trong xã hội, như đã được nói rất rõ trong viễn tượng về hoà bình của Đấng Mêsia: khi mọi dân tộc tiến lên đền Chúa, Ngài sẽ dạy họ đường lối của Ngài và họ sẽ đi theo đường lối bình an ấy (x. Is 2,2-5). Một thế giới mới hoà bình bao trùm lên mọi thụ tạo, đó chính là lời hứa cho thời đại Đấng Mêsia (x. Is 11,6-9); chính Đấng Mêsia cũng sẽ được gọi là “Thái Tử hoà bình” (Is 9,5). Nơi nào có hoà bình của Ngài, nơi nào có hoà bình ấy dù chỉ phần nào, nơi đó không ai có thể làm dân Chúa lo sợ nữa (x. Zc 3,13). Chính lúc ấy, hoà bình sẽ bền vững: khi nhà vua đã cai trị theo công lý của Chúa thì sự công chính sẽ nở hoa và hoà bình sẽ lan tràn “cho tới khi mặt trăng không còn nữa” (Tv 72,7). Thiên Chúa mong muốn đem hoà bình đến cho dân Ngài: “Ngài sẽ nói chuyện hoà bình với dân mình, với các thánh của mình, với những ai đã quay về với Ngài tự trong lòng” (Tv 85,9). Khi lắng nghe những gì Chúa muốn nói với dân Ngài về hoà bình, Tác giả Thánh Vịnh đã nghe được những lời sau đây: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý sẽ giao duyên” (Tv 85,11).

491Lời hứa hoà bình trải dài suốt toàn bộ Cựu Ước và đã được thực hiện trọn vẹn nơi chính con người Đức Giêsu. Thật vậy, hoà bình là thuộc tính trên hết của Đấng Mêsia, trong đó bao gồm tất cả các ơn ích khác của sự cứu độ. Từ “shalom” (hoà bình) trong tiếng Hipri đã diễn đạt ý nghĩa ấy vì từ gốc của chữ này có nghĩa là “sung mãn” (x. Is 9,5tt; Mch 5,1-4). Vương quốc của Đấng Mêsia đích thực là vương quốc hoà bình (x. G 25,2; Tv 29,11; 37,11; 72,3.7; 85,9.11; 119; 125,5; 128,6; 147,14; Dc 8,10; Is 26,3.12; 32,17tt; 52,7; 54,10; 57,19; 60,17; 66,12; Ag 2,9; Zc 9,10…). Đức Giêsu là “bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Người đã phá đổ bức tường thù nghịch chia rẽ dân chúng khi hoà giải họ với Chúa (x. Ep 2,14-16). Với thái độ đơn sơ chân thành mà hiệu quả này, thánh Phaolô đã cho các Kitô hữu biết đâu là động cơ sâu xa khiến họ bắt tay tổ chức một cuộc sống hoà bình và thi hành một sứ mạng hoà bình.

Trước khi chịu chết, Đức Giêsu đã nói tới mối quan hệ yêu thương của Người với Chúa Cha và sức mạnh thống nhất mà tình yêu ấy mang lại cho các môn đệ. Trong bài diễn văn chia tay ấy, Người đã cho thấy ý nghĩa sâu xa của cuộc đời mình, có thể được coi là bản tóm tắt tất cả giáo lý của Người. Ơn hoà bình chính là dấu ấn Người đóng trên chúc thư thiêng liêng của mình: “Thầy để lại bình an cho anh em; Thầy ban bình an của Thầy cho anh em; Thầy không ban như thế gian ban tặng anh em” (Ga 14,27). Khi sống lại, Đức Giêsu cũng không nói khác: mỗi khi gặp các môn đệ, Người cũng đều ban cho họ lời chào và ơn bình an: “Chúc anh em bình an” (Lc 24,36; Ga 20,19.21.26).

492Hoà bình của Đức Kitô trước tiên là sự làm hoà với Chúa Cha, sự làm hoà này có được là do thừa tác vụ mà Đức Giêsu đã uỷ thác cho các môn đệ, và nó khởi sự với lời công bố bình an: “Vào nhà nào, trước tiên anh em hãy nói ‘bình an cho nhà này’” (Lc 10,5; x. Rm 17). Tiếp đến, hoà bình là làm hoà với anh chị em, vì trong kinh Đức Giêsu dạy chúng ta – Kinh Lạy Cha – ơn tha thứ mà chúng ta cầu xin nơi Thiên Chúa gắn liền với sự tha thứ mà chúng ta làm cho anh chị em mình: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con” (Mt 6,12). Qua sự hoà giải hai hướng ấy, các Kitô hữu có thể trở thành chuyên viên hoà giải, và từ đó, được tham gia vào Vương quốc của Thiên Chúa đúng như những gì Đức Giêsu tuyên bố trong Tám Mối Phúc Thật: “Phúc cho ai xây dựng hoà bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

493Nỗ lực xây dựng hoà bình là một việc không bao giờ được tách rời khỏi việc loan báo Tin Mừng, vì đây đúng là “Tin Mừng hoà bình” (Cv 10,36; x. Ep 6,15) cho hết mọi người. Trung tâm điểm của “Tin Mừng hoà bình” (Ep 6,15) này vẫn là mầu nhiệm thập giá, vì hoà bình được phát sinh từ hy tế của Đức Kitô (x. Is 53,5). “Hình phạt đã giáng xuống trên Người làm cho ta nên trọn vẹn; và nhờ những roi vọt đánh đập lên Người mà chúng ta được chữa lành”. Đức Kitô bị đóng đinh đã thắng vượt các mối chia rẽ, tái lập hoà bình và hoà giải chính là nhờ thập giá, và “do đó làm chấm dứt mọi sự thù nghịch” (Ep 2,16) và đem ơn cứu độ của mầu nhiệm Phục Sinh đến cho loài người.

II. HOÀ BÌNH: KẾT QUẢ CỦA CÔNG LÝ VÀ BÁC ÁI

494Hoà bình là một giá trị1015 và là một nghĩa vụ của hết mọi người1016 dựa trên một trật tự  hợp lý và luân lý của xã hội, trật tự này bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, “là nguồn sống đầu tiên, là sự thật căn bản và là sự thiện hảo tối cao”1017. Hoà bình không phải chỉ là không có chiến tranh, cũng không phải hạ thấp xuống tới mức chỉ là giữ cho các bên thù địch nhau cân bằng về quyền lực1018; mà đúng hơn, hoà bình được xây dựng trên việc hiểu đúng con người1019 và đòi phải thiết lập được một trật tự dựa trên nền tảng công lý và bác ái.

Hoà bình là kết quả của công lý1020, (x. Is 32,17) được hiểu theo nghĩa rộng là tôn trọng sự cân bằng giữa mọi chiều hướng của con người. Hoà bình bị đe doạ khi con người không được trao cho tất cả những gì phải là của mình, xét như một con người, hay khi phẩm giá con người không được tôn trọng và khi đời sống dân sự không được quy hướng về công ích. Bảo vệ và phát huy các quyền con người là điều kiện cần thiết để xây dựng một xã hội hoà bình và để phát triển toàn diện các cá nhân, các dân tộc và các quốc gia.

Hoà bình là kết quả của tình yêu. “Hoà bình đích thực và bền vững là việc của tình yêu hơn là của công lý, vì vai trò của công lý chỉ là loại bỏ những trở ngại đặt ra cho hoà bình: đó là những thương tổn hay những thiệt hại đã gây ra. Còn hoà bình tự chính bản thân là một hành động và là những thành quả chỉ xuất phát từ tình yêu”1022.

495Hoà bình được xây dựng dần dần khi người ta theo đuổi một trật tự như Chúa muốn1023 và hoà bình chỉ thăng hoa khi mọi người đều công nhận ai ai cũng có trách nhiệm xúc tiến hoà bình1024. Để ngăn ngừa xung đột và bạo lực, tuyệt đối cần phải làm cho hoà bình bắt đầu bám rễ như một giá trị ăn sâu vào trong tâm hồn mỗi người. Bằng cách đó, hoà bình có thể đến được các gia đình và các tổ chức khác nhau trong xã hội, cho tới khi toàn thể cộng đồng chính trị đều tham gia vào đó1025. Trong một bầu khí thấm nhuần tinh thần hoà hợp và tôn trọng công lý, thì một nền văn hoá hoà bình chân chính có thể nảy nở1026, thậm chí nền văn hoá ấy có thể thâm nhập vào toàn thể cộng đồng quốc tế. Bởi đó, hoà bình là kết quả của “một sự hoà hợp đã được Thiên Chúa, Đấng sáng lập xã hội loài người, đưa vào trong xã hội loài người và phải được thể hiện bởi con người khi họ không ngừng khao khát một nền công lý lớn lao hơn”1027. Một lý tưởng về hoà bình như thế “không thể nào có được trên trần gian này nếu đời sống ấm no của con người chưa được bảo đảm và nếu người ta chưa được tự do và tin tưởng chia sẻ với nhau những sự phong phú của trí tuệ và tài năng của mình”1028.

496Bạo lực thường là giải pháp không thích đáng. Với sự xác tín về niềm tin vào Đức Kitô và ý thức sứ mạng của mình, Giáo Hội tuyên bố: “bạo lực là tội ác, không thể chấp nhận bạo lực làm giải pháp cho các vấn đề, bạo lực là điều không xứng đáng với con người. Bạo lực là sự dối trá, vì nó đi ngược lại sự thật của đức tin và sự thật của nhân loại. Bạo lực phá huỷ tất cả những gì nó hô hào bảo vệ, từ phẩm giá đến sự sống và tự do của con người”1029.

Thế giới hiện nay cũng cần lời chứng của các tiên tri không khí giới, những người thường hay bị chế nhạo1030. “Những ai từ chối bạo lực và từ chối đổ máu, đồng thời để bảo vệ nhân quyền, cố gắng tận dụng các phương thế tự vệ mà cả người yếu kém nhất cũng có thể sử dụng, là những người đã làm chứng cho lòng bác ái theo Tin Mừng, miễn là khi làm như thế, họ không làm phương hại đến quyền lợi và bổn phận của người khác và của xã hội. Họ đã minh chứng một cách chính đáng rằng việc nhờ đến bạo lực sẽ gây nên những rủi ro nghiêm trọng cho thể lý và tinh thần với tất cả sự huỷ hoại và chết chóc của nó”1031.

III. CHIẾN TRANH: MỘT SỰ THẤT BẠI CỦA HOÀ BÌNH

497Huấn Quyền lên án “sự man rợ của chiến tranh”1032 và yêu cầu phải xem xét chiến tranh theo một đường hướng mới1033. Thật vậy, “hầu như không thể nào tưởng tượng được trong một kỷ nguyên hạt nhân như hiện nay, người ta được phép sử dụng chiến tranh như một công cụ để thực thi công lý”1034. Chiến tranh đúng là một “mối hoạ”1035 và không bao giờ là một phương cách thích đáng để giải quyết các vấn đề nảy sinh giữa các quốc gia, “chiến tranh chưa bao giờ và cũng sẽ không bao giờ là” phương cách thích đáng1036, vì chiến tranh sẽ tạo ra những sự xung đột mới còn phức tạp hơn1037. Khi chiến tranh bùng nổ, nó trở thành một “cuộc tàn sát không cần thiết”1038, một “cuộc ra đi không có ngày về”1039, làm hại tới hiện tại và đe doạ tới tương lai của nhân loại. “Hoà bình không làm mất điều gì, nhưng chiến tranh có thể làm mất tất cả1040. Thiệt hại do một cuộc xung đột vũ trang gây ra không chỉ thiệt hại vật chất mà còn thiệt hại tinh thần1041. Rốt cuộc, chiến tranh là “sự thất bại của toàn thể nền nhân đạo chân chính”1042, “chiến tranh luôn luôn là một sự thất bại của con người”1043: “đừng bao giờ dân này chống dân kia nữa, đừng bao giờ nữa!… đừng có chiến tranh nữa, đừng có chiến tranh nữa!”1044.

498.  Hiện nay, việc tìm kiếm các giải pháp thay thế chiến tranh để giải quyết các cuộc xung đột quốc tế đang trở nên cấp thiết vô cùng, vì “sức mạnh kinh khủng của các phương tiện huỷ diệt – mà ngay cả các nước vừa và nhỏ cũng có thể sử dụng – và sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa các dân tộc trên thế giới đã khiến cho việc hạn chế các hậu quả của xung đột trở nên vô cùng khó khăn hay hầu như vô phương thực hiện”1045. Bởi đó, cần tìm ra những nguyên nhân ẩn đằng sau các cuộc xung đột có thể gây chiến ấy, nhất là những cuộc xung đột gắn liền với các các hoàn cảnh tạo ra bất công, nghèo đói và bóc lột, đòi người ta phải can thiệp sâu thì mới loại trừ các nguyên nhân ấy được. “Vì lý do đó, hoà bình mang một danh hiệu mới là sự phát triển. Nếu phải có một trách nhiệm tập thể để tránh chiến tranh thì cũng phải có một trách nhiệm tập thể để đẩy mạnh sự phát triển”1046.

499Các quốc gia không phải lúc nào cũng có đầy đủ những phương tiện để tự vệ cách hữu hiệu, và vì thế, cần phải có các tổ chức quốc tế và khu vực, là những tổ chức có điều kiện làm việc chung với nhau để giải quyết các xung đột và đẩy mạnh hoà bình, tái lập những mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau, khiến việc sử dụng chiến tranh trở thành phi lý1047. “Chúng ta có lý do để hy vọng… rằng bằng cách gặp gỡ và thương thảo, con người có thể khám phá rõ ràng hơn những mối dây liên kết mình lại với nhau, xuất phát từ chỗ hai bên đều có chung bản tính con người; cũng như một trong những yêu cầu sâu xa nhất của bản tính chung ấy là giữa họ với nhau và giữa các dân tộc với nhau không nên để cho sự sợ hãi thống trị mà phải để tình yêu thống trị, một tình yêu cố gắng bộc lộ ra trong sự cộng tác chân thành, dù có thể mang nhiều hình thức và đem lại nhiều lợi ích”1048.

Bài này đã được xem 2983 lần!

Pages ( 38 of 54 ): <1 ... 3637 38 3940 ... 54>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]