c. Học thuyết xã hội và việc đào tạo
528. Cần phải tham khảo học thuyết xã hội của Giáo Hội để đào tạo Kitô hữu biết hội nhập trọn vẹn. Khinhấn mạnh học thuyết này như nguồn cảm hứng cho sứ mạng tông đồ và hoạt động xã hội, Huấn Quyền xác tín rằng học thuyết này sẽ hình thành nên một nguồn lực đặc biệt cho việc đào tạo; “điều này đặc biệt đúng đối với giáo dân là những người có trách nhiệm trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống công cộng và xã hội. Trước hết, họ cần phải có một sự hiểu biết chính xác hơn… về học thuyết xã hội của Giáo Hội”1121. Một trong các lý do đưa đến thất bại khiến học thuyết này không phản ánh một cách thích hợp để có thái độ sống cụ thể là vì di sản học thuyết này không được giảng dạy hay không được hiểu biết cách đầy đủ.
529. Giá trị đào tạo của học thuyết xã hội của Giáo Hội cần được quan tâm hơn trong việc dạy giáo lý1122. Giáo lý là việc giảng dạy có hệ thống về toàn bộ học thuyết Kitô giáo, nhằm dẫn dắt các tín hữu sống trọn vẹn Tin Mừng1123. Mục đích cuối cùng của giáo lý “là đưa con người không chỉ tiếp cận được mà còn hiệp thông mật thiết được với Đức Giêsu Kitô”1124. Theo đường hướng này, người ta có thể nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần, là Đấng ban tặng đời sống mới trong Đức Kitô1125. Nhìn theo ánh sáng của đời sống mới này, trong việc giáo dục đức tin, khoa giáo lý không thể bỏ qua mà không quan tâm đến việc “làm sáng tỏ những thực tại một cách thích đáng, chẳng hạn như hoạt động của con người hướng tới sự giải thoát toàn vẹn cho mình, việc tìm kiếm một xã hội liên đới và huynh đệ hơn, việc đấu tranh cho công lý và xây dựng hoà bình”1126. Muốn thực hiện được những điều đó, cần phải trình bày toàn bộ giáo huấn xã hội theo lịch sử, nội dung và phương pháp của nó. Cần tiếp cận trực tiếp với văn bản của các thông điệp xã hội, cần đọc chúng trong bối cảnh Giáo Hội, hầu làm cho giáo huấn xã hội này được nhiều người đón nhận và thực hành, nhờ sự đóng góp của nhiều người có thẩm quyền và chuyên môn trong cộng đồng vào các lĩnh vực khác nhau.
530. Trong bối cảnh của việc dạy giáo lý, điều quan trọng trên hết là phải giảng dạy học thuyết xã hội của Giáo Hội thế nào để thôi thúc người học làm cho các thực tại trần thế thấm nhuần Tin Mừng và mang tính nhân bản. Thật vậy, qua học thuyết này, Giáo Hội đưa ra một kiến thức lý thuyết và thực tiễn làm hậu thuẫn cho việc dấn thân để biến đổi đời sống xã hội, giúp nó ngày càng thích hợp một cách trọn vẹn hơn với kế hoạch của Thiên Chúa. Giáo lý xã hội nhằm mục đích đào tạo con người, nam cũng như nữ, xét trên phương diện trật tự luân lý, là những người yêu mến sự tự do đích thực, những người “sẽ hình thành phán đoán của họ theo ánh sáng của sự thật, biết hướng dẫn những hoạt động của mình với tinh thần trách nhiệm và đấu tranh cho sự thật và công lý trong việc tình nguyện hợp tác với người khác”1127. Nhân chứng của đời sống Kitô hữu có một giá trị đào tạo phi thường. “Đặc biệt đời sống thánh thiện toả sáng nơi nhiều thành phần dân Chúa, thể hiện cách khiêm tốn và thường ít khi nhìn thấy, lại tạo nên cách thức đơn giản và thu hút nhất để nhận ra được ngay vẻ đẹp của chân lý, sức mạnh giải thoát của tình yêu Thiên Chúa, và giá trị của sự trung tín vô điều kiện đối với tất cả những đòi hỏi của luật Chúa, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất”1128.
531. Học thuyết xã hội của Giáo Hội phải là nền tảng của một công trình đào tạo sâu sắc và bền bỉ, đặc biệt cho giáo dân. Một sự đào tạo như thế phải để ý đến những bổn phận của họ trong xã hội dân sự. “Nhiệm vụ của người tín hữu không phải là thụ động chờ đợi những mệnh lệnh và hướng dẫn, nhưng chính mình phải biết tự nguyện đưa ra sáng kiến và truyền đạt tinh thần Kitô giáo vào trong cách suy nghĩ, tập quán, luật lệ và các cấu trúc của cộng đồng mình sống”1129. Cấp bậc đầu tiên của việc đào tạo các Kitô hữu giáo dân là phải giúp họ có khả năng hoà hợp một cách hữu hiệu những hoạt động hằng ngày vào trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế – chính trị và phải làm cho họ tăng thêm ý thức rằng mình có bổn phận phục vụ cho công ích1130. Cấp bậc thứ hai liên quan tới việc đào tạo lương tâm chính trị nhằm mục đích chuẩn bị cho các Kitô hữu giáo dân thực thi quyền chính trị. “Những ai có biệt tài về nghệ thuật chính trường cao thượng nhưng cũng đầy khó khăn hoặc những ai có năng lực đặc biệt về vấn đề này cần được phát triển, thì phải tự chuẩn bị cho mình về vấn đề này, biết quên đi những tiện nghi và những lợi lộc vật chất cá nhân và cần dấn thân vào hoạt động chính trị”1131.
532. Các cơ sở giáo dục Công giáo nên và phải thực hiện việc phục vụ đào tạo cao quý, khi tự cống hiến cách đặc biệt cho việc hội nhập văn hoá của sứ điệp Kitô giáo, nghĩa là cho cuộc gặp gỡ hữu hiệu giữa Tin Mừng và các ngành kiến thức khác nhau. Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo là một phương tiện cần thiết cho một nền giáo dục Kitô giáo đạt hiệu quả là hướng tới tình yêu thương, công lý và hoà bình, cũng như hướng tới sự trưởng thành ý thức về các bổn phận luân lý và xã hội trong những lĩnh vực văn hoá và chuyên môn khác nhau.
Những “Tuần lễ Xã hội” của người Công giáo mà Huấn Quyền luôn khuyến khích là những thí dụ điển hình về các cơ hội đào tạo. Chúng là những thời gian đặc biệt để cho người tín hữu giáo dân biểu lộ và gia tăng sự đóng góp vào xã hội, mà những người này lại có khả năng đóng góp ở mức độ đặc biệt cao cho trật tự trần thế. Nhiều quốc gia nhận thấy rằng những tuần lễ này thật sự là những dịp nghiên cứu về mặt văn hoá trong việc trao đổi những suy tư và kinh nghiệm, nghiên cứu các vấn đề nổi bật và tìm ra những cách tiếp cận mới để giải quyết vấn đề.
533. Việc tận dụng học thuyết xã hội để đào tạo các linh mục và các ứng viên chức linh mục cũng không kém phần quan trọng. Các ứng viên này là những người, trong bối cảnh chuẩn bị cho thừa tác vụ, cần phải trau dồi một kiến thức toàn diện về giáo huấn của Giáo Hội và về mối quan tâm của Giáo Hội trong lĩnh vực xã hội cũng như sự chú ý sâu sắc đối với những vấn đề xã hội của thời đại họ sống. Bộ Giáo dục Công giáo đã phát hành tập tài liệu Hướng dẫn Học tập và Giảng dạy Học thuyết Xã hội của Giáo Hội trong việc Đào tạo Linh mục1132, tài liệu này đưa ra những chỉ dẫn và khuyến cáo đặc biệt cho kế hoạch nghiên cứu đúng đắn và phù hợp với giáo huấn này.
d. Khuyến khích đối thoại
534. Học thuyết xã hội của Giáo Hội là một công cụ ưu việt cho việc đối thoại giữa các cộng đồng Kitô giáo với cộng đồng dân sự và chính trị. Đó là một công cụ thích hợp để cổ vũ và vun trồng những thái độ hợp tác đích thực và hữu hiệu theo các cách thức thích ứng với các hoàn cảnh. Sự dấn thân của các quyền hành dân sự và chính trị được mời gọi phục vụ thiên chức của từng cá nhân và của xã hội loài người phù hợp với những lĩnh vực riêng biệt của thẩm quyền và với những phương tiện họ có được, sự dấn thân này có thể tìm thấy trong giáo huấn xã hội của Giáo Hội một hậu thuẫn quan trọng và một nguồn cảm hứng phong phú.
535. Giáo huấn xã hội của Giáo Hội cũng là mảnh đất màu mỡ cho đối thoại và hợp tác trong lĩnh vực đại kết. Điều này xảy ra ở nhiều nơi khác nhau trên một quy mô rộng lớn liên quan tới việc bảo vệ phẩm giá con người, cổ vũ cho hoà bình, đấu tranh cách cụ thể và hữu hiệu chống lại sự khốn cùng trong thế giới hiện nay, như nạn đói kém và nghèo nàn, nạn mù chữ, sự phân phối không công bằng của cải trên trái đất và tình trạng thiếu nhà ở. Sự hợp tác đa diện này làm tăng ý thức rằng mọi người đều là anh chị em trong Đức Kitô, và làm cho cuộc hành trình tiến tới đại kết được dễ dàng hơn.
536. Nhờ có chung truyền thống Cựu Ước, Giáo hội Công giáo có thể tham gia đối thoại với anh chị em Do Thái giáo, và Giáo Hội cũng thực hiện việc đối thoại này thông qua học thuyết xã hội của mình, để cùng nhau xây dựng một tương lai đem lại công lý và hoà bình cho mọi người, với tư cách là con cái của một Thiên Chúa duy nhất. Di sản thiêng liêng chung này nuôi dưỡng sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau1133, trên cơ sở này, có thể đạt được sự đồng thuận lớn lao hơn liên quan tới việc khai trừ mọi hình thức phân biệt đối xử và bảo vệ nhân phẩm.
537.Học thuyết xã hội của Giáo Hội cũng tiêu biểu cho một lời kêu gọi đối thoại liên tục giữa các thành viên của các tôn giáo trên thế giới để có thể cùng nhau tìm ra những hình thức hợp tác thích hợp nhất. Tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm hoà bình, điều này tuỳ thuộc vào việc cùng dấn thân cho sự phát triển toàn diện của con người1134. Trong tinh thần gặp gỡ nhau để cầu nguyện được tổ chức tại Assisi1135, Giáo Hội tiếp tục mời gọi các tín hữu thuộc các tôn giáo khác đối thoại và thúc đẩy việc làm chứng cách hữu hiệu ở khắp mọi nơi cho những giá trị được cả gia đình nhân loại chia sẻ.
e. Những chủ thể của hoạt động mục vụ xã hội
538.Toàn thể dân Chúa đều có một vai trò để thực hiện trong khi Giáo Hội hoàn thành sứ mạng của mình. Với nhiều cách thức khác nhau và thông qua mỗi thành viên tuỳ theo năng khiếu và cách hành động thích hợp với thiên chức của mỗi người, dân Chúa phải làm tròn bổn phận công bố và làm chứng cho Tin Mừng (x. 1 Cr 9,16), trong sự nhận thức rằng “hoạt động truyền giáo là một vấn đề của mọi Kitô hữu”1136.
Công tác mục vụ trong lĩnh vực xã hội cũng được hiểu là dành cho tất cả các Kitô hữu, những người được mời gọi trở nên những chủ thể sống động để làm chứng cho học thuyết xã hội này và trở nên thành phần tích cực của truyền thống vững chắc trong “hoạt động hữu hiệu của hàng triệu người, những người cố gắng làm cho giáo huấn này trở thành nguồn cảm hứng cho sự dấn thân của họ trong thế giới, nhờ sự thôi thúc của Huấn Quyền”1137. Hoạt động với tư cách cá nhân hay cùng với những người khác trong các nhóm, các hiệp hội hay các tổ chức khác nhau, các Kitô hữu ngày nay đại diện cho “một phong trào vĩ đại để bảo vệ con người và bảo toàn nhân phẩm” 1138.
539.Trong mỗi Giáo Hộiriêng biệt, trách nhiệm hàng đầu cho việc dấn thân mục vụ để Phúc Âm hoá các thực tại xã hội thuộc về giám mục, được các linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân giúp đỡ. Cùng với sự lưu tâm đặc biệt đến những thực tại ở địa phương, giám mục có trách nhiệm cổ vũ giáo huấn và phổ biến học thuyết xã hội của Giáo Hội, điều mà giám mục cần phải thực hiện thông qua các định chế thích hợp.
Hoạt động mục vụ của giám mục được thực hiện qua thừa tác vụ của các linh mục là những người tham gia vào nhiệm vụ giáo huấn, thánh hoá và cai quản cộng đồng Kitô hữu của giám mục. Thông qua những chương trình đào tạo thích hợp, linh mục nên phổ biến học thuyết xã hội của Giáo Hội cho các thành viên trong cộng đồng của mình và khuyến khích họ ý thức về quyền lợi và bổn phận để trở thành những chủ thể tích cực của học thuyết này. Thông qua việc cử hành các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể và Hoà Giải, linh mục giúp tín hữu sống việc dấn thân trong lĩnh vực xã hội của họ như là hoa trái của mầu nhiệm cứu độ. Linh mục cần cổ vũ hoạt động mục vụ trong phạm vi xã hội, quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo và đồng hành thiêng liêng với các Kitô hữu giáo dân đã dấn thân vào đời sống xã hội và chính trị. Linh mục nào thi hành công tác mục vụ trong các hiệp hội khác nhau của Giáo Hội, đặc biệt những hiệp hội chuyên lo việc tông đồ xã hội, có bổn phận khuyến khích sự tăng trưởng của các nhóm như thế thông qua việc giảng dạy đúng đắn học thuyết xã hội.
540.Công việc mục vụ trong lĩnh vực xã hội này cũngbao gồm công việc của những người đượcthánh hiến tuỳ theo đặc ân riêng của họ. Đời sống chứng nhân sáng ngời của các người này, đặc biệt trong những hoàn cảnh rất nghèo nàn, biểu hiện một sự nhắc nhở cho mọi người về những giá trị thánh thiện và tinh thần phục vụ quảng đại cho đồng loại mình. Ân huệ dâng hiến hoàn toàn chính mình nơi các tu sĩ nam nữ được mọi người chiêm ngưỡng như là một dấu hiệu hùng hồn và mang tính tiên tri cho học thuyết xã hội của Giáo Hội. Tự hiến mình hoàn toàn cho việc phục vụ mầu nhiệm tình yêu của Đức Kitô dành cho nhân loại và thế giới, các tu sĩ như thể tham dự trước và minh chứng bằng chính đời sống của họ một số đặc điểm của nhân loại mới mà học thuyết xã hội này đang tìm cách hô hào. Trong tinh thần khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, những người được thánh hiến dấn thân phục vụ với lòng bác ái mục vụ, đặc biệt qua kinh nguyện, và cũng nhờ kinh nguyện, họ chiêm ngưỡng kế hoạch của Thiên Chúa về thế giới và cầu xin Chúa mở lòng cho hết mọi người biết đón nhận vào trong chính bản thân mình ân huệ làm nên nhân loại mới, mà Đức Kitô trả giá bằng việc hy tế chính mình.
II. HỌC THUYẾT XÃ HỘI VÀ SỰ DẤN THÂN CỦA TÍN HỮU GIÁO DÂN
a. Tín hữu giáo dân
541.Đặc điểm cốt yếu của tín hữu giáo dân, những người làm việc trong vườn nho của Chúa (x. Mt 20,1-16), là bản chất trần thế trong nhiệm vụ làm môn đệ Đức Kitô của họ, nhiệm vụ ấy được thực hiện chính xác nơi trần thế. “Nhiệm vụ của tín hữu giáo dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa qua việc gắn bó với những công việc trần gian và sắp đặt chúng theo thánh ý Chúa”1139. Qua bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu được sáp nhập vào Đức Kitô, được tham dự vào chính đời sống và sứ mạng của Người theo bản sắc riêng của họ. “Từ ngữ ‘giáo dân’ ở đây được hiểu là tất cả các tín hữu ngoại trừ những người có chức thánh và những ai theo đuổi đời sống tu trì được Giáo Hội công nhận. Nghĩa là người tín hữu, qua bí tích Thánh Tẩy, được sáp nhập vào Đức Kitô, được đưa vào dân Chúa, và theo cách thức riêng, họ được chia sẻ chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Đức Kitô, và với tất cả khả năng của mình, họ đảm nhận sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Giáo Hội và trong thế giới”1140.
542.Bản sắc của tín hữu giáo dân được phát sinh và nuôi dưỡng bởi bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể. Bí tích Thánh Tẩy làm cho con người được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con Thiên Chúa, trưởng tử của mọi loài thụ tạo, được sai đến với tất cả như là vị Thầy và là Đấng Cứu Thế. Bí tích Thêm Sức làm cho mỗi cá nhân nên giống khuôn mẫu của Đức Kitô, Đấng được sai đến để ban sự sống mới cho công cuộc sáng tạo và cho từng hữu thể qua việc tuôn trào Thần Khí của Người. Bí tích Thánh Thể làm cho người tín hữu được tham dự vào hy tế duy nhất và hoàn hảo mà Đức Kitô dâng hiến cho Chúa Cha, bằng chính xác thân Người để cứu độ thế giới.
Người tín hữu Công giáo là những môn đệ của Đức Kitô bắt đầu với các bí tích, có nghĩa là qua những gì Thiên Chúa đã tác tạo nơi họ, ghi dấu nơi họ bằng chính hình ảnh của Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài. Chính từ quà tặng ân huệ thần linh này, chứ không phải từ sự nhượng quyền của con người, mà phát sinh ra “munus” (ân huệ và trọng trách) ba mặt, tiêu biểu cho người tín hữu giáo dân, là tiên tri, tư tế và vương giả, phù hợp với bản tính trần thế của họ.
543.Bổn phận chính đáng của tín hữu giáo dân là công bố Tin Mừng bằng lời chứng gương mẫu của đời sống được ăn rễ sâu trong Đức Kitô và được sống động qua những thực tại trần thế nhưgia đình; sự dấn thân vào chuyên môn trong thế giới lao động, văn hoá, khoa học và nghiên cứu; việc thực hành các trách nhiệm xã hội, kinh tế và chính trị. Tất cả những thực tại con người trần thế – cả cá nhân lẫn xã hội, bao gồm những môi trường và hoàn cảnh lịch sử khác nhau, cũng như các cấu trúc và các định chế – là bối cảnh mà trong đó người tín hữu giáo dân sống và làm việc. Những thực tại này là những nơi mà người ta đón nhận được tình yêu Thiên Chúa. Sự dấn thân của họ phải phù hợp với tầm nhìn này và được nhìn nhận như một cách diễn tả lòng bác ái theo Tin Mừng. “Đối với tín hữu giáo dân, sự hiện diện và hoạt động của họ trong thế giới không chỉ là một thực tại mang tính nhân học và xã hội học, nhưng theo một cách thức đặc biệt, đó còn là một thực tại mang tính thần học và giáo hội học nữa”1141.
Bài này đã được xem 2948 lần!