544. Việc làm chứng của tín hữu giáo dân được phát sinh từ ân huệ Chúa ban, được công nhận, nuôi dưỡng và dẫn tới sự trưởng thành1142. Động lực này làm cho sự dấn thân của họ trên thế giới có ý nghĩa và khác với những đặc tính hoạt động đặc thù của chủ nghĩa nhân bản vô thần, những đặc tính ấy không có một nền tảng tối hậu và bị đóng khung trong những giới hạn hoàn toàn thế tục. Lấy viễn cảnh cánh chung là then chốt mới có thể đem đến một sự hiểu biết đúng đắn về những thực tại con người. Từ điểm tựa là những ích lợi xác định này, tín hữu giáo dân có thể dấn thân vào hoạt động trần thế theo những tiêu chuẩn đích thực. Những mức sinh hoạt cao và năng suất kinh tế lớn hơn không phải là các chỉ báo có giá trị duy nhất để đo lường thành tựu đầy đủ của con người trong cuộc sống này, và thậm chí chúng còn kém giá trị đối với cuộc sống mai hậu, “bởi vì tầm nhìn của con người không chỉ giới hạn trong trật tự trần thế; tuy sống trong tầm mức của lịch sử nhân loại, con người vẫn bảo tồn toàn vẹn vận mệnh vĩnh cửu của mình”1143.
b. Linh đạo giáo dân
545. Tín hữu giáo dân được mời gọi vun trồng linh đạo giáo dân đích thực mà qua đó họ được tái sinh thành những con người mới, được thánh hoá và trở nên những người thánh hoá, được dìm trong mầu nhiệm Thiên Chúa và được đặt vào lòng xã hội. Một linh đạo như thế sẽ xây dựng thế giới theo Thần Khí của Đức Giêsu. Điều đó làm cho con người có khả năng nhìn xa hơn lịch sử mà không tách mình ra khỏi lịch sử, có khả năng vun đắp một tình yêu mãnh liệt đối với Thiên Chúa mà không xa cách anh chị em mình, những người mà họ có thể hiểu như Chúa hiểu và yêu như Chúa yêu. Linh đạo này ngăn chặn được cả hai chủ nghĩa duy linh sâu đậm và chủ nghĩa duy hoạt xã hội, thay vào đó, nó tự biểu lộ trong một tổng hợp sống động đem lại sự hợp nhất, ý nghĩa và niềm hy vọng cho sự hiện hữu, mà vì nhiều lý do khác nhau, sự hiện hữu này trở thành mâu thuẫn và manh mún. Được thúc đẩy bởi một linh đạo như thế, tín hữu giáo dân có khả năng đóng góp vào việc “thánh hoá thế giới, tự bên trong như men trong bột, bằng cách chu toàn bổn phận riêng của mình. Vì vậy, đặc biệt qua bằng chứng đời sống riêng của mình… họ phải biểu lộ Đức Kitô cho người khác”1144.
546.Tín hữu giáo dân cần củng cố đời sống tâm linh và luân lý của mình để ngày càng trở nên thành thạo trong việc chu toàn các bổn phận của mình. Việc đào sâu các động lực bên trong và trau dồi lối sống thích hợp cho công việc của họ trong các lĩnh vực xã hội và chính trị là những kết quả của việc đào tạo năng động và liên tục, trước tiên là hướng tới sự hài hoà giữa niềm tin và cuộc sống với những phức tạp của nó… Vì vậy, trong kinh nghiệm của các tín hữu, “không thể có hai cuộc sống cùng tồn tại mà lại cứ song song với nhau, một đàng gọi là đời sống ‘tâm linh’ với những giá trị và những đòi hỏi của nó; đàng khác, được gọi là đời sống ‘thế tục’, nghĩa là đời sống trong gia đình, tại nơi làm việc, trong các mối quan hệ xã hội, trong những trách nhiệm của đời sống công cộng và trong văn hoá”1145.
Liên kết niềm tin và cuộc sống với nhau đòi hỏi phải theo con đường đã được vạch ra một cách đúng đắn bởi những yếu tố đặc trưng của đời sống Kitô hữu:Ngôi Lời Thiên Chúa như là một điểm quy chiếu; việc cử hành mầu nhiệm Kitô giáo trong phụng vụ; kinh nguyện cá nhân; kinh nghiệm đích thực của Giáo Hội được tăng cường bởi những việc đào tạo đặc biệt của các nhà hướng dẫn tâm linh sâu sắc; việc thực thi những đức tính xã hội và việc dấn thân bền bỉ cho công tác đào tạo văn hoá và chuyên môn.
c. Hành động thận trọng
547. Tín hữu giáo dân cần hành động theo tiếng gọi của sự thận trọng, một đức tính làm cho ta có thể nhận ra được sự thiện đích thực trong mọi trường hợp và chọn ra được những phương tiện đúng đắn để đạt được sự thiện đó. Nhờ đức tính này, những nguyên tắc luân lý được áp dụng cách chính xác trong những trường hợp riêng biệt. Chúng ta có thể nhận ra ba thời điểm riêng biệt khi sự thận trọng được thực hành để làm sáng tỏvà lượng giá các tình hình, gợi hứng cho những quyết định và thôi thúc hành động. Thời điểm thứ nhất được nhận thấy trong suy tư và tham vấn, qua đó những vấn đề được nghiên cứu và những ý kiến cần thiết được tìm tòi. Thời điểm thứ hai là thời điểm lượng giá khi thực tại được phân tích và phán đoán trong ánh sáng của kế hoạch Thiên Chúa. Thời điểm thứ ba là thời điểm quyết định dựa trên những giai đoạn trước và làm cho có thể chọn lựa được một quyết định giữa những hành động khác nhau cần xúc tiến.
548. Sự thận trọng làm cho những quyết định nhất quán có thể thực hiện được, và thực hiện chúng với óc thực tế và có ý thức trách nhiệm về những hậu quả của hành vi mình làm. Ý kiến phổ biến coi sự thận trọng ngang hàng với sự khôn khéo sắc sảo, với những toan tính thực dụng, với sự thiếu tự tin hoặc với tính nhút nhát hay thiếu dứt khoát, đều là những hiểu biết rất không đúng về đức tính này. Đây là một đặc tính của lý trí thực tiễn và đưa ra sự hỗ trợ trong việc quyết định tiến trình hành động cần phải theo với sự khôn ngoan và can đảm và trở thành thước đo cho những đức tính khác. Sự thận trọng xác định thiện ích như một bổn phận và chỉ cho con người thấy cần phải hoàn thành thiện ích ấy bằng cách thức nào1146. Suy cho cùng, thận trọng là một đức tính đòi hỏi sự thể hiện trưởng thành trong suy nghĩ và chịu trách nhiệm về sự hiểu biết khách quan đối với một tình huống đặc biệt và về việc tạo ra những quyết định theo một ý chí đúng đắn1147.
d. Học thuyết xã hội và các hiệp hội giáo dân
549. Học thuyết xã hội của Giáo Hội phải trở thành một phần không thể thiếu trong việc đào tạo đang được xúc tiến cho tín hữu giáo dân. Kinh nghiệm cho thấy công việc đào tạo này chỉ có thể được thực hiện trong các hiệp hội của Giáo Hội dành cho giáo dân để đáp ứng chính xác cho những “tiêu chuẩn của Giáo Hội”1148. “Các nhóm, các hiệp hội và các phong trào cũng có vai trò của mình trong việc đào tạo giáo dân. Thật vậy, chúng có khả năng, với phương pháp riêng của từng tổ chức, cống hiến một sự đào tạo thông qua kinh nghiệm được chia sẻ một cách sâu sắc trong đời sống tông đồ, đồng thời tạo cơ hội hoà nhập, làm cho việc đào tạo, mà các thành viên của họ nhận được nơi người khác và các cộng đồng khác, được cụ thể và chuyên biệt”1149.
Học thuyết xã hội của Giáo Hội nâng đỡ và chiếu toả ánh sáng lên vai trò của các hiệp hội, các phong trào và các nhóm giáo dân đang dấn thân cho công cuộc canh tân Kitô giáo trong nhiều khu vực khác nhau của trật tự trần thế1150. “Sự hiệp thông của Giáo Hội, đã hiện diện và hoạt động trong các sinh hoạt của cá nhân, biểu lộ đặc biệt nơi các tín hữu giáo dân đang làm việc chung trong các nhóm, nghĩa là qua những sinh hoạt được thực hiện với những người khác trong quá trình tham gia đầy trách nhiệm của họ vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội”1151.
550. Học thuyết xã hội của Giáo Hội vô cùng quan trọng đối với các hiệp hội của Giáo Hội mà mục tiêu của chúng là hoạt động mục vụ trong xã hội. Những hiệp hội này được người ta thích tìm đến để tham khảo, vì chúng hiện diện trong xã hội như là những bộ phận của Giáo Hội theo đúng bản chất của chúng; điều này cho thấy tầm quan trọng và giá trị của cầu nguyện, của suy tư và đối thoại để bàn đến và cải thiện các thực tại xã hội. Mỗi người phải ghi nhớ sự khác biệt, trong từng trường hợp, “giữa các hoạt động của Kitô hữu – khi họ hành động với tư cách cá nhân hay tập thể trên danh nghĩa là những công dân được hướng dẫn bởi tiếng gọi của lương tâm Kitô giáo – và hoạt động của họ cùng với các vị chủ chăn của mình nhân danh Giáo Hội”1152.
Những hiệp hội chuyên biệt khác nhau quy tụ con người lại với nhau nhân danh thiên chức và sứ mệnh Kitô hữu trong lĩnh vực riêng về chuyên môn hoặc văn hoá có vai trò quý giá trong việc đào tạo nên các Kitô hữu trưởng thành. Ví dụ, hiệp hội các bác sĩ Công giáo quy tụ các thành viên của hội để cùng nhau nhận thức rõ về nhiều vấn đề được y học, sinh vật học và các khoa học khác đặt ra trước năng lực chuyên môn của các bác sĩ, cũng như trước lương tâm cá nhân và niềm tin của họ. Tương tự như vậy, cũng có thể nói đến các hiệp hội dành cho các giáo viên Công giáo, các nhà chuyên môn về luật pháp, các doanh nhân nam nữ, các công nhân cũng như các hiệp hội thể thao Công giáo, hiệp hội về sinh thái, v.v… Trong bối cảnh này, học thuyết xã hội của Giáo Hội chỉ cho thấy đây là những phương tiện hữu hiệu để đào tạo lương tâm cho cá nhân và hình thành nền văn hoá quốc gia.
e. Phục vụ trong những khu vực khác nhau của đời sống xã hội
551.Sự hiện diện của giáo dân trong đời sống xã hội được tiêu biểu bởi việc phục vụ, đó là dấu hiệu và sự biểu lộ của tình yêu, được thể hiện trong lĩnh vực gia đình, văn hoá, lao động, kinh tế và chính trị theo những khía cạnh đặc trưng. Tuân theo những đòi hỏi khác trong lĩnh vực lao động đặc biệt của mình, giáo dân nam nữ diễn tả sự thật của lòng tin và đồng thời cũng diễn tả sự thật của học thuyết xã hội của Giáo Hội, làm cho học thuyết này hoàn toàn trở thành một thực tại khi học thuyết ấy được sống một cách cụ thể với mục đích để giải quyết các vấn đề xã hội. Quả thật, sự tin cậy đối với học thuyết này phát xuất một cách trực tiếp từ bằng chứng của hành động hơn là tính nhất quán nội tại hoặc tính logic của nó1153.
Tiến vào Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của kỷ nguyên Kitô giáo, qua đời sống chứng nhân, người giáo dân sẽ cởi mở chính mình cho tất cả những ai mà cùng với họ đón nhận gánh nặng trách nhiệm về lời mời gọi khẩn thiết nhất của thời đại chúng ta. “Rút ra từ những kho tàng giáo huấn của Giáo Hội, những đề nghị của Công Đồng này nhắm tới tất cả mọi người, dù họ tin vào Thiên Chúa hoặc không nhìn nhận Ngài cách công khai; những đề nghị ấy có ý giúp họ nhận thức sâu sắc hơn về vận mệnh của mình, giúp cho lao động phù hợp hơn với phẩm giá cao quý của con người, giúp phấn đấu để có một cảm thức sâu đậm hơn về tình huynh đệ phổ quát và giúp đáp ứng những yêu cầu khẩn thiết của thời đại chúng ta với một nỗ lực quảng đại và phổ biến của tình yêu”1154.
1. Phục vụ con người
552. Trong những lĩnh vực dấn thân xã hội của giáo dân, việc phục vụ con người chiếm ưu thế hàng đầu. Cổ vũ cho phẩm giá của mọi người, tài sản quý nhất của những con người, nam cũng như nữ, là “nhiệm vụ thiết yếu, hiểu theo một nghĩa nào đó, là nhiệm vụ trọng tâm và thống nhất của việc phục vụ mà Giáo Hội, và giáo dân trong Giáo Hội, được mời gọi để thể hiện cho gia đình nhân loại”1155.
Hình thức thứ nhất, trong đó nhiệm vụ được thực hiện, bao gồm sự dấn thân và những nỗ lực đổi mới chính mình từ bên trong, vì lịch sử con người không phải bị chi phối bởi thuyết tiền định phi ngôi vị nhưng bởi đa số các chủ thể mà những hành động tự do của họ hình thành nên trật tự xã hội. Tự bản thân những định chế xã hội không bảo đảm cho công ích một cách tự động; sự “đổi mới tinh thần của Kitô giáo”1156 từ bên trong phải đi trước việc dấn thân nhằm cải thiện xã hội “theo tâm thức của Giáo Hội được thiết lập một cách vững chắc trên nền tảng công lý và bác ái xã hội”1157.
Chính từ sự chuyển biến của các tâm hồn mà nảy sinh ra mối quan tâm đến những người khác để yêu thương họ như anh chị em mình. Sự quan tâm này giúp chúng ta hiểu được nghĩa vụ và sự dấn thân để làm lành mạnh các định chế, các cơ cấu và các điều kiện sống đi ngược lại với phẩm giá con người. Giáo dân vì thế cùng một lúc vừa phải làm biến đổi các con tim đồng thời vừa cải thiện các cơ cấu, trong khi chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử và sử dụng những phương tiện hợp pháp để làm cho phẩm giá của mọi người nam nữ được tôn trọng thật sự và được cổ vũ bên trong các định chế.
553.Cổ vũphẩm giá con người trên hết ngụ ý việc xác định tính bất khả xâm phạm của quyền được sống, từ khi được thụ thai cho đến lúc chết một cách tự nhiên, là quyền thứ nhất trong các quyền lợi và là điều kiện cho tất cả các quyền khác của con người1158. Hơn nữa, tôn trọng nhân phẩm đòi buộc phải nhìn nhận chiều hướng tôn giáo của con người. “Đây không chỉ đơn giản là một đòi buộc ‘liên quan đến những vấn đề của niềm tin’, mà còn là một đòi buộc không thể tách biệt ra khỏi thực tại cá nhân của con người”1159. Sự nhìn nhận hữu hiệu về quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo là một trong những di sản cao quý nhất và là một trong những bổn phận quan trọng nhất của mỗi dân tộc muốn bảo đảm thiện ích của cá nhân và xã hội1160. Trong bối cảnh văn hoá hiện nay, nhu cầu đặc biệt khẩn thiết là nhu cầu bảo vệ hôn nhân và gia đình, muốn đáp ứng đầy đủ nhu cầu này, người ta phải xác tín về giá trị duy nhất và riêng biệt của hai thực tại đó đối với sự phát triển đích thực của xã hội loài người1161.
2. Phục vụ trong lĩnh vực văn hoá
554. Văn hoá phải là lĩnh vực ưu tiên cho sự hiện diện và dấn thân của Giáo Hội và các cá nhân Kitô hữu. Công đồng Vatican II nhận thấy sự tách rời của niềm tin Kitô giáo với đời sống hằng ngày như là một trong những sai lạc trầm trọng nhất của thời đại chúng ta1162. Tình trạng không có một viễn cảnh siêu hình, sự đánh mất lòng khát vọng tìm Chúa vì yêu mình quá độ nên chỉ tự phục vụ cho chính bản thân, và các hình thức khác nhau gặp thấy trong những lối sống tiêu thụ; dành ưu tiên cho việc nghiên cứu khoa học và kỹ thuật như là cùng đích của đời mình; chú trọng vào dáng vẻ bên ngoài, nỗ lực truy tìm hình ảnh, những kỹ thuật truyền thông. Tất cả các hiện tượng trên đây cần phải hiểu trong các khía cạnh văn hoá của chúng và cần phải đặt trong tương quan với vấn đề trọng tâm của con người, của sự phát triển con người toàn diện, của năng lực giao tiếp và liên hệ với người khác, và của sự tìm kiếm không ngừng của con người để trả lời cho những vấn đề lớn đặt ra trong cuộc sống. Cần phải ghi nhớ rằng “nhờ văn hoá, con người, với tư cách là người, sẽ trở thành người hơn, và một khi “là” người hơn như thế, thì cũng làm cho sự hiện hữu có giá trị hơn”1163.
555. Cổ vũ một nền văn hoá xã hội và chính trị được gợi hứng từ Tin Mừng phải là một phạm vi hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt đối với tín hữu giáo dân. Lịch sử gần đây cho thấy sự yếu kém và thất bại hoàn toàn của những viễn cảnh văn hoá được quần chúng đón nhận và thịnh hành trong một thời gian dài, nhất là trên tầm mức xã hội và chính trị. Đặc biệt trong những thập niên sau Thế Chiến Thứ Hai, các Kitô hữu trong các quốc gia khác nhau đã tham gia vào lĩnh vực xã hội và chính trị tới mức độ cao, điều đó cho thấy ngày càng rõ ràng hơn tính kiên định trước sau như một của nguồn cảm hứng và của di sản các giá trị nơi họ. Thật vậy, sự tham gia vào lĩnh vực xã hội và chính trị của các Kitô hữu không bao giờ bị giới hạn vào việc chỉ làm biến đổi các cơ cấu mà thôi, vì sự tham gia này diễn ra ở tận các nền móng của một nền văn hoá biết đón nhận và lắng nghe sự suy luận được hình thành bởi lòng tin và luân lý, vì coi lòng tin và luân lý như thể là nền tảng và mục tiêu của kế hoạch cụ thể. Khi thiếu sự nhận thức này, chính các Kitô hữu bị lên án là đã làm phân tán văn hoá và những đề nghị của họ trở nên thiếu sót và bị giới hạn. Một ưu tiên cấp bách ngày nay cũng được tìm thấy trong nhu cầu giới thiệu di sản truyền thống Công giáo, các giá trị và nội dung của truyền thống này và toàn bộ di sản thiêng liêng, tri thức và luân lý của học thuyết Công giáo bằng những từ ngữ được cập nhật hoá về mặt văn hoá. Niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng diễn tả chính mình như “là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), thúc bách các Kitô hữu ngày nay dấn thân cách kiên quyết và mới mẻ để xây dựng một nền văn hoá chính trị xã hội được gợi hứng từ Tin Mừng1164.
Bài này đã được xem 2956 lần!