556.Sự hoàn hảo trọn vẹn của con người và thiện ích của toàn thể xã hội là những cứu cánh thiết yếu của nền văn hoá1165; vì vậy chiều hướng đạo đức của văn hoá là một ưu tiên trong sinh hoạt xã hội của người tín hữu giáo dân. Không chú ý đến chiều hướng này sẽ dễ dàng biến văn hoá thành một công cụ làm nghèo nhân loại. Nền văn hoá có thể trở nên cằn cỗi và đi đến suy đồi khi nó “chỉ hướng về bên trong và cố gắng duy trì những lối sống lỗi thời qua việc từ chối bất cứ trao đổi hay thảo luận nào có liên quan đến sự thật về con người”1166. Trái lại, việc tạo nên một nền văn hoá có khả năng làm phong phú con người, nam cũng như nữ, đòi hỏi sự tham gia của toàn thể con người, trên bình diện văn hoá mà con người này thể hiện tính sáng tạo, trí thông minh, sự hiểu biết của mình về thế giới và về con người; và hơn nữa, càng làm phong phú những ai biết sử dụng tốt khả năng tự kiềm chế, hy sinh bản thân, sống liên đới và sẵn sàng đẩy mạnh công ích1167.
557.Sự tham gia về mặt xã hội và chính trị của giáo dân trong lĩnh vực văn hoá ngày nay đang chuyển biến theo những hướng chuyên biệt. Trước tiên là cố gắng bảo đảm quyền có một nền văn hoá nhân bản và dân sự cho mỗi con người, “phù hợp với phẩm giá của con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, quốc gia, tôn giáo hoặc những hoàn cảnh xã hội”1168. Quyền này bao hàm quyền của các gia đình và những con người được đi học trong các trường miễn phí và các trường mở; tự do tiếp cận với các phương tiện truyền thông xã hội, cũng như tránh được mọi hình thức độc quyền và kiểm soát về ý thức hệ trong lĩnh vực này; tự do nghiên cứu, chia sẻ tư tưởng, bàn cãi và thảo luận. Nhiều hình thức tước đoạt về văn hoá và không nhìn nhận các quyền lợi của văn hoá chính là nguồn phát sinh ra sự nghèo khổ của nhiều dân tộc. Sự dấn thân vào việc giáo dục và đào tạo con người luôn là mối quan tâm hàng đầu của hoạt động xã hội Kitô giáo.
558.Thách đố thứ hai cho sự dấn thân Kitô giáo liên quan đến nội dung của văn hoá, đó là sự thật. Vấn đề sự thật là cốt lõi của văn hoá vì vấn đề này nằm trong bổn phận của mỗi con người là phải duy trì một sự hiểu biết về con người toàn vẹn, trong đó các giá trị về trí tuệ, ý chí, lương tâm và tình huynh đệ là những nét nổi bật”1169. Một nền nhân học đúng đắn là tiêu chuẩn để soi chiếu và xác minh mọi hình thức lịch sử của văn hoá. Người Kitô hữu dấn thân trong lĩnh vực văn hoá để kiên quyết phản đối mọi viễn cảnh mang tính giản lược và ý thức hệ về con người và sự sống. Động lực thúc đẩy con người mở ra cho sự thật trên hết được bảo đảm bởi sự kiện là “các nền văn hoá khác nhau xét cho cùng là những phương thức đối mặt khác nhau một cách cơ bản trước vấn đề đi tìm ý nghĩa về sự hiện hữu của con người”1170.
559. Các Kitô hữu phải hoạt động sao cho toàn bộ giá trị về chiều hướng tôn giáo của văn hoá được nhìn nhận. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách đối với phẩm chất của cuộc sống con người, cả về mức độ cá nhân lẫn xã hội. Vấn đề phát sinh từ mầu nhiệm sự sống và quy chiếu về mầu nhiệm cao cả hơn là mầu nhiệm Thiên Chúa nằm ở vị trí trung tâm của mọi nền văn hoá. Khi vấn đề này bị loại bỏ thì nền văn hoá và đời sống luân lý của các dân tộc cũng bị suy đồi1171. Chiều hướng tôn giáo đích thực là thành phần thiết yếu của con người và cho phép con người triển khai các hoạt động đa dạng của mình hướng về một chân trời rộng lớn để tìm thấy ở đó ý nghĩa và hướng đi cho các hoạt động này. Tính tôn giáo hoặc tâm linh của con người được thể hiện thành những hình thức được một nền văn hoá tiếp nhận và chính nó lại đem đến sức sống và nguồn cảm hứng cho nền văn hoá đó. Vô số các công trình nghệ thuật của từng thời đại làm chứng cho điều này. Khi chiều hướng tôn giáo của con người hay của một dân tộc bị phủ nhận, chính văn hoá bắt đầu suy tàn, đôi khi biến mất hoàn toàn.
560.Trong việc thăng tiến một nền văn hoá đích thực, giáo dân sẽ đặt trọng tâm vào các phương tiện truyền thông đại chúng, và trên hết, bằng cách kiểm tra lại những nội dung của vô số những chọn lựa mà người ta thực hiện. Những lựa chọn này, mặc dầu khác nhau giữa nhóm này với nhóm khác, từ cá nhân này đến cá nhân kia, nhưng tất cả đều có một trọng lượng luân lý và cần được đánh giá theo tính luân lý này. Để chọn lựa một cách chính xác, mỗi người cần phải biết những chuẩn mực của trật tự luân lý và áp dụng chúng một cách trung thực1172. Giáo Hội trao tặng một truyền thống lâu dài về sự khôn ngoan, ăn rễ sâu trong Mạc Khải của Thiên Chúa và trong suy tư của con người1173, định hướng thần học của truyền thống này cung cấp một chức năng điều chỉnh quan trọng cho cả hai “giải pháp: một là giải pháp ‘vô thần’, đã tước đi một trong những chiều hướng cơ bản nơi con người, được gọi là chiều hướng tâm linh, và thứ hai là các giải pháp dễ dãi và hưởng thụ, dưới những chiêu bài khác nhau, tìm cách thuyết phục con người rằng họ được tự do đối với mọi luật lệ, kể cả đối với chính Thiên Chúa”1174. Thay vì phê phán các phương tiện truyền thông xã hội, truyền thống này được đưa ra để phục vụ chúng: “Nền văn hoá khôn ngoan của Giáo Hội có thể cứu nền văn hoá truyền thông đại chúng khỏi trở thành một thứ thu gom những sự việc một cách vô nghĩa”1175.
561.Tín hữu giáo dân sẽ coi các phương tiện truyền thông như những công cụ tạo nên và tăng cường sự liên đới: “Sự liên đới là kết quả của truyền thông chân thật, đúng đắn cũng như của sự trao đổi tự do các ý tưởng làm tăng thêm sự hiểu biết và tôn trọng đối với người khác”1176. Điều này thật không đúng nếu truyền thông đại chúng được dùng để xây dựng và duy trì những hệ thống kinh tế nhằm phục vụ cho sự tham lam và thèm khát. Đối diện với những bất công nghiêm trọng, việc quyết định làm ngơ hoàn toàn trước những khía cạnh đau khổ của con người phản ánh một sự chọn lựa không thể biện minh được1177. Các cơ cấuvàchính sách truyền thông, cũng như sự phân phối kỹ thuật là những nhân tố giúp cho một số người trở nên “giàu thông tin” và cùng lúc những người khác trở nên “nghèo thông tin”, vào thời điểm mà sự phồn vinh, và ngay cả sự sống còn, đều tuỳ thuộc vào thông tin. Bằng cách này, các phương tiện truyền thông luôn góp phần tạo nên những bất công và mất quân bình, là những nguyên nhân đưa tới chính sự đau khổ mà chúng truyền thông. Kỹ thuật truyền thông và thông tin, cùng với việc đào tạo cách sử dụng nó, phải nhắm tới mục đích là xoá bỏ những bất công và mất quân bình như thế.
562.Không phải chỉ những nhà chuyên môn trong lĩnh vực truyền thông mới là những người duy nhất có bổn phận đạo đức. Những người sử dụng phương tiện truyền thông cũng có trách nhiệm. Những người điều hành truyền thông đại chúng cố gắng chu toàn các trách nhiệm của họ để xứng đáng nhận được sự ngưỡng mộ của khán thính giả, là những người ý thức về chính những trách nhiệm của họ. Bổn phận thứ nhất của những người sử dụng phương tiện truyền thông là nhận định và chọn lọc. Các bậc phụ huynh, các gia đình và Giáo Hội đều có những trách nhiệm rõ ràng không thể phủ nhận được. Lời cảnh báo của thánh Phaolô vang lên mạnh mẽ và rõ ràng cho những ai đang hoạt động với những khả năng khác nhau trong những lĩnh vực truyền thông xã hội: “Bởi vậy, hãy cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với người lân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau… Ước gì không có lời độc địa nào thốt ra từ môi miệng anh em, nhưng nếu cần hãy nói những gì tốt đẹp để xây dựng và giúp ích cho người nghe” (Ep 4,25.29). Phục vụ con người qua việc xây dựng cộng đồng nhân loại dựa trên nền tảng liên đới, công lý và tình yêu, cũng như phổ biến chân lý về cuộc sống con người và về sự hoàn tất sau cùng của cuộc sống ấy nơi Thiên Chúa, nằm ở ngay trung tâm của đạo đức trong các phương tiện truyền thông đại chúng1178. Trong ánh sáng đức tin, truyền thông của con người có thể được coi như một hành trình từ tháp Babel tới ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, hay nói đúng hơn, như là sự dấn thân của cá nhân và xã hội để vượt lên sự sụp đổ của truyền thông (x. St 11,4-8), mở đường cho con người đi vào quà tặng ngôn ngữ (x. Cv 2,5-11), đi vào sự truyền thông được phục hồi bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần do Chúa Con gửi đến.
3. Phục vụ trong lĩnh vực kinh tế
563.Đốidiện với những phức tạp của bối cảnh kinh tế ngày nay, tín hữu giáo dân sẽ được các nguyên tắc của Huấn Quyền về xã hội dẫn dắt trong những hành động của họ. Nhất thiết phải biết đến và chấp nhận các nguyên tắc này trong chính lĩnh vực hoạt động kinh tế. Khi không biết đến các nguyên tắc ấy, trên hết là nguyên tắc con người phải là trọng tâm của mọi hoạt động kinh tế, thì phẩm chất của hoạt động kinh tế bị tổn thương1179.
Sự dấn thân của các Kitô hữu cũng sẽ được diễn tả thành một nỗ lực tư duy có tính văn hoá mà mục tiêu là phân định những mô hình phát triển kinh tế và xã hội đương thời. Giản lược chủ đề phát triển hoàn toàn vào vấn đề kỹ thuật sẽ tước đoạt nội dung đích thực của phát triển, một nội dung liên quan đến “phẩm giá của các cá nhân và dân tộc”1180.
564.Các nhà kinh tế, những người làm việc trong lĩnh vực này và những nhà lãnh đạo chính trị phải ý thức được nhu cầu cấp bách là phải xem xét lại nền kinh tế, một mặt là xét đến sự nghèo túng bi thảm về vật chất của hàng tỷ người, và mặt khác, xét đến một sự thật là “các cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá hiện nay không được trang bị đầy đủ để đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển chính đáng”1181. Những yêu cầu hợp lý về năng suất kinh tế cần phải làm cho hài hoà hơn với những yêu cầu tham gia chính trị và công bằng xã hội. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa là sự liên đới phải là thành phần không thể thiếu trong mạng lưới lệ thuộc lẫn nhau về kinh tế, chính trị và xã hội mà tiến trình toàn cầu hoá hiện nay đang có khuynh hướng củng cố1182. Trong nỗ lực xem xét lại này, người ta thấy các thực thể kinh tế được tổ chức tốt và đang mang lại hiệu quả, các hiệp hội có nguồn cảm hứng Kitô giáo năng động trong lĩnh vực kinh tế – chẳng hạn như các tổ chức công nhân, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà kinh tế – đóng một vai trò quý giá.
4. Phục vụ trong lĩnh vực chính trị
565.Đối với tín hữu giáo dân, việc tham gia vào chính trị là một hành động thích đáng và đòi hỏi nhiều nỗ lực để biểu lộ sự dấn thân của Kitô hữu trong việc phục vụ người khác1183. Việc theo đuổi công ích trong tinh thần phục vụ, việc phát triển công lý với sự quan tâm đặc biệt đến những tình trạng đói nghèo và đau khổ, việc tôn trọng quyền tự trị của các thực tại trần thế, nguyên tắc bổ trợ, việc cổ vũ đối thoại và hoà bình trong bối cảnh của tình liên đới: đó là những tiêu chuẩn phải gợi hứng cho người giáo dân trong hoạt động chính trị của họ. Tất cả các tín hữu, trong tư cách là người có quyền lợi và bổn phận công dân, đều buộc phải tuân thủ những nguyên tắc hướng dẫn này. Còn những ai đang nắm giữ những vị trí trong các tổ chức xử lý các vấn đề phức tạp thuộc lĩnh vực công, bất kể trong bộ máy hành chính địa phương hay trong những cơ quan quốc gia và quốc tế, cần phải quan tâm đặc biệt để tuân thủ các nguyên tắc đó.
566.Những nhiệm vụ kèm theo các trách nhiệm trong các cơ quan xã hội và chính trị đòi hỏi một sự dấn thân triệt để và hài hoà, nghĩa là có khả năng chứng minh cách rõ ràng sự cần thiết tuyệt đối của chiều hướng đạo đức trong đời sống xã hội và chính trị, thông qua những đóng góp có suy nghĩ cho việc tranh luận, hoạch định và những hành động chọn lọc trong lĩnh vực chính trị. Việc không quan tâm đầy đủ tới chiều hướng luân lý dẫn đến một cuộc sống mất hẳn tính người trong xã hội cũng như trong các cơ quan xã hội và chính trị, từ đó củng cố “cấu trúc tội lỗi”1184. Sống và hành động phù hợp với lương tâm mỗi người trong các vấn đề chính trị không phải là sự chấp nhận mù quáng những lập trường xa lạ với chính trị hoặc chấp nhận một loại chủ thuyết xưng thú tội lỗi nào đó, nhưng là cách thức qua đó các Kitô hữu trao tặng sự cống hiến cụ thể, để thông qua đời sống chính trị, xã hội sẽ trở nên công bằng và nhất quán hơn với phẩm giá con người”1185.
567.Trong bối cảnh dấn thân chính trị của giáo dân, cần quan tâm đặc biệt đến việc chuẩn bị cho các tín hữu thực thi quyền hành sẽ nằm trong tay họ, đặc biệt khi họ được các công dân trao phó cho những bổn phận như thế theo quy luật của nền dân chủ. Họ cần phải biết đánh giá đúng hệ thống dân chủ “bao lâu hệ thống đó bảo đảm cho các công dân tham gia vào việc thực hiện các lựa chọn chính trị, bảo đảm cho người bị trị vừa có thể bầu cử và quy trách nhiệm những người cai trị mình, vừa có thể thay thế những người ấy thông qua các phương thế ôn hoà khi cần thiết”1186. Họ cũng cần loại bỏ những tổ chức bí mật muốn tìm ảnh hưởng hoặc lật đổ hoạt động của các cơ cấu hợp pháp. Việc thể hiện quyền hành phải có tính chất phục vụ và luôn được thực hiện trong bối cảnh các luật lệ luân lý nhằm đạt tới công ích1187. Những ai thực thi quyền hành chính trị cần phải thấy rằng những năng lực của tất cả các công dân được quy hướng tới công ích và họ thực hiện như thế không phải theo lối độc tài nhưng nhờ vào việc vận dụng sức mạnh luân lý được sự tự do hậu thuẫn.
568.Tín hữu giáo dân được mời gọi nhận dạng các bước có thể xúc tiến trong những tình huống chính trị cụ thể để đem áp dụng các nguyên tắc và giá trị đích thực cho cuộc sống xã hội. Điều này cần đến phương pháp phân định1188, ở cả cấp bậc cá nhân lẫn cộng đồng, phương pháp này được cấu tạo xoay quanh một số yếu tố chủ chốt: trước tiên là sự hiểu biết về những tình huống, các tình huống này được phân tích với sự trợ giúp của các ngành khoa học xã hội và các phương tiện thích hợp khác; tiếp theo là tư duy có hệ thống về những thực tại trong ánh sáng không thay đổi của sứ điệp Tin Mừng và của giáo huấn xã hội của Giáo Hội; sau cùng là việc nhận biết được những lựa chọn hướng đến việc chắc chắn rằng tình huống sẽ tiến triển theo hướng tích cực. Khi thực tại là đề tài được quan tâm cẩn thận và được giải thích cách thích hợp, thì những lựa chọn cụ thể và hiệu quả có thể được thực hiện. Dù vậy, những lựa chọn này không thể được coi là có giá trị tuyệt đối vì không có vấn đề nào có thể được giải quyết một lần là xong. “Niềm tin Kitô giáo không bao giờ nghĩ mình được quyền áp đặt một khuôn khổ cứng nhắc cho những vấn đề xã hội và chính trị, nhưng ý thức rằng chiều hướng lịch sử đòi buộc những người nam nữ phải sống trong những tình huống bất toàn, những tình huống sẵn sàng hứng chịu đổi thay”1189.
569.Một bối cảnh đặc biệt đểthực hiện việc phân định có thể thấy trong sinh hoạt của hệ thống dân chủ, được nhiều người ngày nay biết đến dưới tên gọi là tình trạng bất khả tri và tương đối. Điều này dẫn tới việc tin rằng chân lý là điều gì đó được đa số quyết định và được quy định bởi những sự cân nhắc về chính trị1190. Trong những tình huống như thế, đặc biệt cần đến việc phân định, việc phân định này được thực hiện dựa trên sự đánh giá cách khách quan và chính xác của thông tin, của nghiên cứu khoa học và của những quyết định kinh tế ảnh hưởng đến đời sống của những người nghèo nhất. Việc phân định cũng đòi hỏi khắt khe như thế khi phải giải quyết những thực tại liên quan tới những bổn phận luân lý căn bản và không thể tránh được, như tính bất khả xâm phạm của sự sống, sự bất phân ly trong hôn nhân, việc thăng tiến gia đình xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ.
Bài này đã được xem 2924 lần!