Trong những tình huống như thế, một vài tiêu chuẩn nền tảng thật hữu ích: sự phân biệt, và đồng thời, sự liên kết giữa trật tự pháp luật và trật tự luân lý; sự trung thành với bản sắc riêng của mình, và đồng thời, việc sẵn sàng dấn thân vào cuộc đối thoại với mọi người; trong phán đoán và hoạt động của các Kitô hữu, nhu cầu quy chiếu tới việc tuân thủ ba loại giá trị không thể tách rời nhau được: các giá trị tự nhiên xét về khía cạnh độc lập hợp pháp của những thực tại trần thế; các giá trị đạo đức cổ vũ cho chiều hướng đạo đức nội tại của mọi vần đề xã hội và chính trị; các giá trị siêu nhiên với mục đích là chu toàn bổn phận của mình trong tinh thần Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.
570.Khi – xét tới các lĩnh vực hay thực tại có liên quan đến các bổn phận đạo đức căn bản – những lựa chọn pháp lý hay chính trị nào đi ngược lại với những nguyên tắc và giá trị Kitô giáo được đề nghị hoặc được thực hiện, Huấn Quyền dạy rằng “một lương tâm Kitô hữu được giáo dục tốt không cho phép người đó bỏ phiếu thuận cho một chương trình chính trị hoặc cho một luật lệ cá thể đi ngược lại với những nội dung căn bản của niềm tin và luân lý”1191. Trong những trường hợp không thể tránh được việc thực hiện các chương trình chính trị như thế hoặc không thể cản trở hoặc bãi bỏ những luật này, Huấn Quyền dạy rằng một đại biểu quốc hội tuyệt đối phản kháng các chương trình hoặc những luật lệ ấy cách rõ ràng và công khai, thì vị đại biểu này có thể ủng hộ một cách hợp pháp những đề nghị có mục đích giới hạn thiệt hại phát sinh từ những chương trình và luật lệ đó và có mục đích giảm thiểu những hậu quả tiêu cực về mặt văn hoá và đạo đức quần chúng. Về phương diện này, một ví dụ điển hình cho trường hợp như thế là khoản luật cho phép phá thai1192. Trong bất cứ trường hợp nào, phiếu của đại biểu không thể được hiểu là việc ủng hộ cho một luật lệ bất công nhưng chỉ có thể được hiểu như là sự đóng góp vào việc giảm thiểu những hậu quả tiêu cực của một điều khoản pháp lý, còn trách nhiệm về khoản luật này hoàn toàn thuộc về những ai đưa nó vào hiện thực.
Đối mặt với những tình huống liên quan tới những bổn phận căn bản và hết sức cần thiết của luân lý, cần nhắc lại rằng việc làm chứng của Kitô hữu được coi là một bổn phận nền tảng, bổn phận này thậm chí có thể dẫn tới việc hy sinh mạng sống mình, tới việc tử vì đạo nhân danh tình yêu và phẩm giá con người1193. Lịch sử của 20 thế kỷ đã qua, cũng như thế kỷ vừa qua, đầy dẫy những vị tử vì đạo cho sự thật Kitô giáo. Họ là những chứng nhân của niềm tin, của hy vọng và tình yêu được xây dựng trên nền tảng Tin Mừng. Ân phúc tử vì đạo là một bằng chứng của người được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô chịu đóng đinh, biểu hiện bằng hình thức cao cả nhất là đổ máu mình ra theo đúng giáo huấn của Tin Mừng: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi… nó sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,24).
571. Sự dấn thân về mặt chính trị của những tín hữu Công giáo thường được đặt trong bối cảnh “quyền tự chủ” của Nhà Nước, nghĩa là phân biệt giữa các lĩnh vực chính trị và tôn giáo1194. Sự phân biệt ấy “là một giá trị mà Giáo hội Công giáo đã đạt được và nhìn nhận, và thuộc về di sản của một nền văn minh hiện đại”1195. Tuy nhiên, học thuyết xã hội bác bỏ một cách rõ ràng những viễn tượng của quyền tự chủ được hiểu theo nghĩa độc lập với luật luân lý: “Sự ‘tự chủ’ này trước tiên quy chiếu tất cả về thái độ của con người tôn trọng những sự thật phát xuất từ sự hiểu biết tự nhiên có liên quan đến đời sống con người trong xã hội, ngay cả khi những sự thật ấy có thể được dạy bởi một tôn giáo riêng biệt, vì sự thật là chỉ có một”1196. Việc chân thành truy tìm sự thật, sử dụng những phương tiện hợp pháp nhằm đẩy mạnh và bảo vệ những sự thật luân lý liên quan đến đời sống xã hội – công lý, tự do, tôn trọng sự sống và những quyền lợi của người khác – là một quyền lợi và bổn phận của mọi thành viên của cộng đồng xã hội và chính trị.
Khi can thiệp vào những vấn đề có liên quan đến đời sống xã hội và chính trị, Huấn Quyền Giáo Hội không thể không tuân thủ các đòi hỏi của quyền tự chủ hiểu theo nghĩa đúng, vì “Huấn Quyền Giáo Hội không muốn thể hiện quyền lực chính trị hoặc khai trừ sự tự do tư tưởng của các tín hữu Công giáo liên quan đến những vấn đề hữu hạn. Thay vào đó, Huấn Quyền – theo đúng chức năng của mình – chỉ dạy và soi sáng các lương tâm của người tín hữu, đặc biệt những người có liên quan đến đời sống chính trị, để hành động của họ luôn phục vụ cho công cuộc thăng tiến toàn diện con người và công ích. Học thuyết xã hội của Giáo hội không phải là một sự xâm phạm vào chính quyền của các quốc gia riêng biệt. Đây là vấn đề bổn phận của người tín hữu Công giáo để nhất quán về mặt luân lý, bổn phận này được tìm thấy trong lương tâm duy nhất và không thể tách biệt của mỗi con người”1197.
572.Nguyên tắc tự chủ liên quan đến việc Nhà Nước phải tôn trọng mọi niềm tin tôn giáo, sự tôn trọng này “bảo đảm cho những cộng đồng tín hữu được tự do thi hành những sinh hoạt nghi lễ tâm linh, văn hoá và bác ái của mình. Trong một xã hội đa nguyên, thế tục là một nơi dành cho sự giao lưu giữa những truyền thống tâm linh khác nhau với Nhà Nước”1198. Tiếc thay, ngay cả trong xã hội dân chủ, vẫn còn những biểu hiện bất bao dung mang tính thế tục, thù nghịch đến độ từ chối bất cứ hình thức nào liên quan đến niềm tin tôn giáo về mặt chính trị và văn hoá. Một sự bất bao dung như thế tìm cách khai trừ hoạt động của các Kitô hữu ra khỏi các lĩnh vực xã hội và chính trị, vì những Kitô hữu cố gắng gìn giữ những sự thật được Giáo Hội chỉ dạy và tuân thủ bổn phận luân lý để hành động cho phù hợp với lương tâm của họ. Những thái độ thù nghịch đó thậm chí đã tiến xa tới mức phủ nhận cách cực đoan nền tảng của luân lý tự nhiên. Sự phủ nhận này là dấu hiệu báo trước sự hỗn loạn về luân lý với hậu quả đương nhiên là kẻ mạnh sẽ lấn át người yếu, điều đó không thể được chấp nhận dưới bất cứ hình thức nào bởi chủ nghĩa đa nguyên hợp pháp, vì nó làm xói mòn những nền móng thực sự của xã hội loài người. Trong sự hiểu biết tình trạng của những sự việc này, “việc gạt Kitô giáo ra bên lề… không báo trước điềm hay cho tương lai hay cho sự đồng thuận giữa các dân tộc; thực ra, nó còn đe doạ chính những nền tảng tinh thần và văn hoá của nền văn minh”1199.
573. Một lĩnh vực đặc biệt cho sự phận định về phía tín hữu giáo dân liên quan tới việc lựa chọn những phương tiện chính trị, nghĩa là việc làm thành viên trong một đảng phái hay trong những hình thức tham gia chính trị khác. Đây phải là một lựa chọn nhất quán với các giá trị và lưu tâm đến những hoàn cảnh hiện nay. Trong bất cứ trường hợp nào, mỗi lựa chọn được thực hiện phải bắt nguồn từ lòng bác ái và hướng tới việc đạt được công ích1200. Một thực thể chính trị duy nhất khó có thể đáp ứng đầy đủ những mối quan tâm của niềm tin Kitô giáo; việc yêu cầu một đảng phái hay một liên minh chính trị đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi của niềm tin hoặc của đời sống Kitô hữu có thể làm tăng lên những sai lầm nguy hiểm. Các Kitô hữu không thể tìm được một đảng phái hoàn toàn phù hợp với tất cả những yêu cầu đạo đức phát xuất từ niềm tin và từ tư cách là thành phần trong Giáo Hội. Sự gắn bó của họ với một tổ chức chính trị sẽ không bao giờ mang tính ý thức hệ nhưng luôn với tinh thần phê phán; bằng cách này, đảng phái và chính trường của đảng phái sẽ được thúc bách để càng ý thức hơn trong việc đem đến công ích thật sự, bao gồm cả cứu cánh thiêng liêng của con người1201.
574.Cần phải phân biệt một bên là những đòi hỏi của niềm tin và những lựa chọn chính trị – xã hội, và bên kia là những lựa chọn được thực hiện bởi các cá nhân Kitô hữu và cộng đồng tín hữu với đầy đủ tư cách của nó. Sự phân biệt ấy có nghĩa là việc gia nhập làm thành viên trong một đảng phái hoặc trong một liên minh chính trị phải được coi như một quyết định cá nhân, mang tính hợp pháp ít là trong giới hạn của các đảng phái và của những lập trường không đối nghịch với niềm tin và các giá trị Kitô giáo1202. Tuy nhiên, việc chọn lựa một đảng phái, một liên minh chính trị, và cả những con người mà cuộc sống công chúng được trao phó cho họ tuy có liên quan đến lương tâm của mỗi người, nhưng không bao giờ có thể là một lựa chọn hoàn toàn cá nhân. “Đây là việc của cộng đồng Kitô hữu để phân tích một cách khách quan tình trạng đặc biệt của riêng đất nước họ, để chiếu rọi lên tình trạng đó ánh sáng của lời bất diệt là chính Tin Mừng và để rút ra từ giáo huấn xã hội của Giáo Hội những nguyên tắc tư duy, những tiêu chuẩn phán đoán và những hướng dẫn cho hành động”1203. Trong bất cứ trường hợp nào, “không ai được phép khẳng định rằng ý kiến của riêng mình chính là ý kiến của thẩm quyền trong Giáo Hội”1204; các tín hữu tốt hơn là nên “cố gắng hướng dẫn nhau qua đối thoại chân thành trong tinh thần bác ái hỗ tương và với mối bận tâm lo tìm công ích trước tiên”1205.
KẾT LUẬN: VÌ MỘT NỀN VĂN MINH TÌNH YÊU
a. Giáo Hội giúp đỡ con người ngày nay
575.Trong xã hội hiện đại, con người càng ngày càng kinh nghiệm về một nhu cầu mới là tìm lại ý nghĩa. “Con người luôn khao khát muốn biết – ít là một cách mơ hồ – cuộc sống, hoạt động và cả cái chết của mình có ý nghĩa gì”1206. Thật khó mà đáp ứng những nhu cầu xây dựng một tương lai trong một bối cảnh mới mẻ đầy những mối quan hệ ngày càng phức tạp và lệ thuộc lẫn nhau trên bình diện quốc tế, trong khi đó chính những mối quan hệ ấy ngày càng thiếu trật tự và kém an toàn. Sống chết dường như chỉ do những tiến bộ khoa học và kỹ thuật quyết định, mà những tiến bộ này lại biến chuyển nhanh hơn khả năng của con người để định cho nó những mục tiêu và lượng giá được những tổn thất do nó gây ra. Thay vào đó, nhiều hiện tượng cho thấy rằng “những công dân của những quốc gia giàu có càng ngày càng cảm thấy không hài lòng với những của cải trần thế và đang nhanh chóng đánh mất ảo tưởng sung túc về một thiên đàng hạ giới. Nhân loại cũng ngày càng ý thức hơn về những quyền lợi của con người, những quyền lợi phổ quát và không thể bị tước đoạt, và người ta càng ngày càng mong mỏi có những mối quan hệ chính đáng và nhân đạo hơn”1207.
576.Đối với những câu hỏi cơ bản về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người, Giáo Hội trả lời qua việc công bố Tin Mừng của Đức Kitô, Tin Mừng này giải thoát phẩm giá con người khỏi những tư tưởng đang thay đổi và bảo đảm cho quyền tự do của những người, nam cũng như nữ, mà không có luật lệ nào của con người có thể làm được. Công đồng Vatican II đã chỉ cho thấy sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới hiện nay là giúp đỡ mọi hữu thể con người khám phá ra ý nghĩa tối hậu của sự hiện hữu của họ ở trong Thiên Chúa. Giáo Hội biết rõ rằng “chỉ một mình Thiên Chúa mà Giáo Hội đang phục vụ mới có thể hoàn toàn thoả mãn được những ước vọng sâu xa nhất của lòng người, vì lòng người không bao giờ có thể thoả mãn với thế giới và những gì mà thế giới trao tặng”1208. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên con người theo hình ảnh Ngài và cứu chuộc họ khỏi tội, mới có thể đưa ra một câu trả lời hoàn toàn thích hợp qua việc mạc khải được thực hiện nơi Con Thiên Chúa làm người. Thật vậy, Tin Mừng “loan báo và công bố sự tự do của con cái Thiên Chúa, cởi bỏ mọi ràng buộc do hậu quả tội lỗi; tôn trọng triệt để phẩm giá và sự tự do chọn lựa của lương tâm, không ngừng khuyến khích phát huy những tài năng của con người để phục vụ Thiên Chúa và người khác, và sau hết, Tin Mừng khuyên dạy mọi người phải có lòng yêu thương bác ái đối với nhau”1209.
b. Khởi đầu lại từ niềm tin vào Đức Kitô
577. Niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Giêsu Kitô soi sáng cho những nguyên tắc luân lý, mà những nguyên tắc đó là “nền tảng duy nhất và không thể thay thế được của sự ổn định và an bình, của trật tự nội tâm và ngoại giới, trật tự riêng hay chung, mà chỉ niềm tin đó mới có thể làm nảy sinh và bảo đảm sự phong phú của các quốc gia”1210. Đời sống xã hội phải dựa trên nền tảng kế hoạch của Thiên Chúa vì “chiều hướng thần học cần thiết cho cả việc giải thích lẫn giải quyết những vấn đề hiện nay trong xã hội loài người”1211. Trong một thế giới hiện hữu với đầy rẫy hình thức bóc lột và bất công xã hội trầm trọng, cần phải có “một nhận thức rộng rãi và nhạy bén hơn bao giờ hết về nhu cầu đổi mới triệt để về con người và xã hội để có thể bảo đảm công lý, tình liên đới, sự trung thực và cởi mở. Chắc chắn con đường đi đến đó còn dài và khó khăn. Việc đạt được một sự đổi mới như thế đòi hỏi một nỗ lực to lớn, đặc biệt khi kể đến số lượng và tính trầm trọng của những nguyên nhân làm phát sinh và làm tồi tệ thêm những tình huống bất công đang hiện diện trong thế giới ngày nay. Tuy vậy, như lịch sử và kinh nghiệm cá nhân cho thấy, không khó để khám phá ra tận cùng nguyên nhân của những tình huống này, vì rõ ràng chúng thật sự liên quan đến ‘văn hoá’, gắn kết với những cách nhìn đặc biệt về con người, xã hội và thế giới. Quả vậy, từ tâm điểm của vấn đề văn hoá, chúng ta tìm được nhận thức luân lý, mà nhận thức này lần lượt được đâm rễ và hoàn thành trong nhận thức tôn giáo”1212. Về “vấn đề xã hội”, chúng ta cần không nên để mình bị lôi kéo bởi “niềm mong ước ngây thơ rằng chúng ta sẽ tìm ra một vài công thức kỳ diệu khi đối diện với những thử thách lớn lao của thời đại này. Không, chúng ta sẽ không được cứu thoát bằng một công thức nhưng nhờ một Con Người, và sự bảo đảm mà Con Người đó đem đến cho chúng ta là: Thầy ở với anh em! Vì thế, vấn đề không phải là phát minh ra một ‘chương trình mới’. Chương trình có sẵn rồi: đó là kế hoạch mà chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng và trong Truyền Thống sống động, mãi mãi sẽ như vậy. Cuối cùng, chương trình đó có tâm điểm là chính Đức Kitô, Đấng phải được nhận biết, được yêu thương và được bắt chước, để trong Người, chúng ta có thể sống đời sống của Ba Ngôi, và cùng với Người, chúng ta biến đổi lịch sử cho đến khi lịch sử hoàn thành nơi Giêrusalem trên trời”1213.
c. Niềm hy vọng vững bền
578.Giáo Hội dạy mọi người, nam cũng như nữ, rằng Thiên Chúa ban tặng cho họ một khả năng thực sự để vượt qua sự dữ và đạt tới sự thiện. Thiên Chúa đã cứu chuộc loài người và “trả bằng một cái giá” (1 Cr 6,20). Ý nghĩa và nền tảng cơ bản của sự dấn thân Kitô hữu trong thế giới được thiết lập trên sự xác tín này, một sự xác tín mở đường cho niềm hy vọng mặc dù tội lỗi in dấu sâu đậm trong lịch sử nhân loại. Lời hứa của Thiên Chúa bảo đảm rằng thế giới không còn khép kín lại trong chính mình nhưng mở rộng ra cho Nước Thiên Chúa. Giáo Hội biết rõ “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Ts 2,7), nhưng Giáo Hội cũng biết rằng “con người vẫn còn đầy đủ những phẩm chất và năng lực, vẫn còn một ‘tính bản thiện’ (x. St 1,31), vì con người là hình ảnh của Đấng Tạo Hoá, được đặt dưới ảnh hưởng cứu chuộc của Đức Kitô, Đấng ‘đã gắn chặt chính mình với từng người theo một cách nào đó’, và vì hoạt động hữu hiệu của Chúa Thánh Thần ‘đang đầy tràn mặt đất’ (Kn 1,7)1214.
579.Niềm hy vọng của Kitô hữu cho họ một năng lực lớn lao để dấn thân vào lĩnh vực xã hội vì niềm hy vọng này tạo ra sự tự tin vào khả năng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, mặc dù sẽ không bao giờ có “một thiên đàng hạ giới”1215. Các Kitô hữu, đặc biệt là giáo dân, được thôi thúc hành động theo cách thức là để cho “sức mạnh của Tin Mừng chiếu soi trên đời sống hằng ngày trong gia đình và xã hội. Họ tự cư xử đúng với tư cách là con cái của lời Chúa hứa và vì vậy họ được mạnh mẽ trong niềm tin và hy vọng để biết tận dụng thời buổi hiện tại (x. Ep 5,16; Cl 4,5) và bền chí chờ đợi vinh quang sẽ đến (x. Rm 8,25). Vì vậy, các Kitô hữu đừng giấu kín niềm hy vọng ấy trong tận nơi thâm sâu của lòng mình, nhưng hãy tỏ lộ ra qua việc hoán cải không ngừng và qua việc chiến đấu “chống lại những lực lượng thống trị thế giới tối tăm này, chống lại những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6,12)1216. Động lực tôn giáo đàng sau sự dấn thân như thế có thể không được tất cả mọi người chia sẻ, nhưng lòng tin vững chắc về mặt luân lý nhận được từ động lực ấy sẽ tạo thành một điểm gặp gỡ giữa các Kitô hữu và tất cả những người thành tâm thiện chí.
Bài này đã được xem 2892 lần!