TÔNG HUẤN ĐẤNG GÌN GIỮ CHÚA CỨU THẾ – REDEMPTORIS CUSTOS

Có biết bao bài học được rút ra cho đời sống gia đình ngày nay! Bởi vì, “phân tích cho cùng thì bản chất và các bổn phận của gia đình phải được xác định bằng tình yêu”, và vì “gia đình lãnh nhận sứ mạng gìn giữ, biểu lộ và thông truyền tình yêu, phản ánh sống động và là một tham dự thực sự vào tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại và tình yêu Đức Kitô dành cho Giáo hội, Hiền thê Người.”[18] Chính nơi Thánh gia, “Giáo hội thu nhỏ”[19] tuyệt vời này mà mọi gia đình Kitô hữu phải tìm thấy phản ánh của mình. Quả thật, nơi đây, “do ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã sống ẩn dật qua nhiều năm dài. Vì thế, Thánh gia chính là mô hình và gương mẫu cho mọi gia đình Kitô hữu.”[20]

8. Thánh Giuse đã được Thiên Chúa gọi để phục vụ con người và sứ vụ Chúa Giêsu trực tiếp qua việc thi hành chức vụ làm cha. Chính qua cách này mà Thánh Giuse “cộng tác vào mầu nhiệm Cứu chuộc cao cả khi thời gian viên mãn” và Ngài đích thực là “thừa tác viên của ơn cứu chuộc.”[21] Chức vụ làm cha của Ngài được biểu hiện cụ thể “qua việc Ngài phải biến đời mình thành phục vụ, thành hy lễ cho mầu nhiệm Nhập Thể và cho sứ mạng cứu độ gắn liền với cuộc đời Ngài; qua việc Ngài phải dùng quyền uy hợp pháp của Ngài trên Gia đình thánh, để biến chính Ngài, biến cuộc đời và công việc Ngài thành một quà tặng trọn vẹn; qua việc Ngài phải chuyển ơn gọi thuần nhân loại để yêu thương gia đình thành một hiến tế siêu nhiên chính bản thân mình, chính con tim và mọi khả năng thành tình yêu nhằm phục vụ Đấng Thiên Sai đã sinh ra dưới mái nhà mình.”[22]

Phụng vụ nhắc lại rằng “Thánh Giuse đã được tín thác trao phó việc gìn giữ các mầu nhiệm cứu độ vào lúc bình minh của thời đại mới”,[23] và xác quyết rằng “Ngài là đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà Thiên Chúa đã trao phó Thánh gia để Ngài chăm nom như người cha lo cho người Con duy nhất của mình.”[24]

Đức Lêô XIII nhấn mạnh đến bản chất cao siêu của sứ mạng này: “Ngài trổi vượt giữa mọi người nhờ phẩm cách uy nghiêm, vì do ý muốn của Thiên Chúa, Thánh Giuse đã là người gìn giữ Con Thiên Chúa, và nhân loại nhìn nhận Ngài là cha của Con Ngài. Từ đó, Ngôi Lời Thiên Chúa khiêm tốn tùng phục Thánh Giuse, vâng lời và làm mọi bổn phận mà mọi người con phải có đối với cha mẹ mình.”[25]

Không thể hiểu được rằng một trọng trách như thế lại không có những phẩm cách cần thiết tương xứng để chu toàn cách thích đáng, nên chúng ta phải nhìn nhận rằng Thánh Giuse, “nhờ hồng ân đặc biệt từ trời”, đã dành cho Chúa Giêsu “trọn tình yêu tự nhiên, mọi chăm nom âu yếm mà một trái tim người cha có thể có được.”[26]

Đồng thời với quyền uy của một người cha đối với Chúa Giêsu, Thiên Chúa còn ban cho Thánh Giuse một tình yêu tương xứng, tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15)

Các sách Tin Mừng mô tả rõ ràng trách nhiệm làm cha của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu. Thật vậy, ơn cứu độ, nhờ nhân tính của Chúa Giêsu, được thực hiện bằng những hành động làm nên đời sống gia đình hằng ngày, tương ứng với việc “tự hạ” vốn gắn liền với nhiệm cục Nhập Thể. Các thánh sử cẩn thận cho thấy không có gì trong cuộc đời Đức Giêsu là ngẫu nhiên, nhưng mọi việc đều xảy ra theo đúng chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Công thức thường được lặp lại: “Điều này xảy ra, để hoàn tất…” liên quan đến một sự kiện đặc biệt trong Cựu ước, dùng để nhấn mạnh đến tính duy nhất và liên tục của chương trình được hoàn thành nơi Đức Kitô.

Qua biến cố Nhập thể, các “lời hứa” và “hình ảnh” trong Cựu ước trở thành “thực tại”: các nơi chốn, nhân vật, biến cố và nghi thức hòa lẫn với nhau theo đúng mệnh lệnh chính xác của Thiên Chúa được các sứ thần thông truyền và được các thụ tạo là những người đặc biệt nhạy cảm với tiếng nói của Thiên Chúa đón nhận. Mẹ Maria là nữ tỳ khiêm hạ của Thiên Chúa, được chuẩn bị từ muôn thuở để đảm trách chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa; còn Thánh Giuse là một người được Thiên Chúa chọn để thành “người sắp xếp cho việc Chúa sinh ra”,[27] người có trách nhiệm trông nom việc Con Thiên Chúa đến trần gian, theo đúng những điều Thiên Chúa an bài và luật lệ nhân loại. Tất cả đời sống được gọi là “riêng tư” hay “ẩn dật“ của Chúa Giêsu đều được trao phó cho Thánh Giuse giữ gìn.

Cuộc kiểm tra dân số

9. Khi trở về Bêlem để được kiểm tra dân số theo lệnh của chính quyền hợp pháp, Thánh Giuse đã chu toàn một nhiệm vụ quan trọng và đầy ý nghĩa đối với Hài nhi Giêsu, đó là chính thức ghi vào sổ bộ tên “Giêsu, con của Ông Giuse làng Nadarét” (x. Ga 1,45) với chính quyền dân sự của đế quốc. Việc ghi danh này chứng minh rõ ràng rằng Đức Giêsu thuộc loài người như một người nam trong nam giới, một công dân của thế giới này, chịu sự chi phối của lề luật và các định chế dân sự, nhưng cũng là “Đấng cứu độ thế giới.” Ôrigênê đã diễn giải rất đúng ý nghĩa thần học bao hàm trong sự kiện lịch sử này, không phải là một sự kiện bên lề: “Tôi sẽ làm gì với câu chuyện này, câu chuyện kể về cuộc kiểm tra dân số đầu tiên của toàn thế giới vào thời Xêdarê Augustô, đồng thời về cuộc hành trình của “Giuse cùng Maria, người đã đính hôn với mình, đang mang thai”, bước đi giữa lòng nhân loại để cùng ghi tên vào sổ bộ, kể về việc Đức Giêsu sinh ra nơi trần gian trước khi cuộc kiểm tra nhân khẩu kết thúc? Với những ai biết quan sát kỹ lưỡng, họ sẽ thấy những biến cố này là dấu hiệu của một mầu nhiệm: Đức Kitô cũng phải chịu cuộc kiểm tra dân số trong lần kiểm tra của toàn thế giới, bởi vì Người muốn được ghi tên cùng với mọi người để thánh hóa mọi người. Người muốn có tên trong danh sách cùng với toàn thể thế giới, để cho thế giới được sống hiệp thông với Người. Sau cuộc kiểm tra này, Người muốn kiểm tra tất cả mọi người cùng với mình trong “sách hằng sống”, và với những ai đã tin nơi Người, Người muốn “ghi tên họ trên trời” chung với các thánh của “Đấng đáng được mọi vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời. Amen.”[28]

Giáng sinh tại Bêlem

10. Là người được ký thác mầu nhiệm “được giấu kín từ muôn đời trong Thiên Chúa,” và bắt đầu tỏ lộ trước mắt Ngài “vào lúc thời gian viên mãn,” cùng với Đức Maria, Thánh Giuse là chứng nhân đặc biệt trong đêm Bêlem, việc Con Thiên Chúa đến trong trần gian. Thánh Luca diễn tả: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,6-7).

Giuse đã là chứng nhân tận mắt của cuộc hạ sinh này, xảy ra trong những hoàn cảnh nghèo khó của loài người, đó là một lời tiên báo về việc “huỷ mình ra không” (x. Pl 2,5-8) mà Đức Kitô tự nguyện chấp nhận để tha thứ tội lỗi. Đồng thời Giuse cũng là chứng nhân việc các mục đồng đến nơi Chúa Giêsu hạ sinh để thờ lạy sau khi các thiên thần báo cho họ tin mừng lớn lao và diễm phúc đó (x. Lc 2,15-16). Sau đó, Giuse còn là “chứng nhân việc các đạo sĩ từ Phương Đông đến kính bái Hài nhi” (x. Mt 2,11).

Cắt bì

11. Việc cắt bì cho người con trai là nghĩa vụ tôn giáo đầu tiên của người cha, và với nghi thức này (x. Lc 2,21) Thánh Giuse đã sử dụng quyền hạn và bổn phận của mình đối với Đức Giêsu. Theo nguyên tắc, tất cả những nghi lễ Cựu ước đều là hình bóng của thực tại (x. Dt 9,9t; 10,1) được dùng để giải thích tại sao Đức Giêsu phải chấp nhận những nghi lễ ấy. Cùng với mọi nghi lễ khác, việc cắt bì cũng “được hoàn thành” nơi Đức Giêsu. Giao ước của Thiên Chúa với Abraham, mà nghi thức cắt bì là dấu chỉ (x. St 17,13) đạt được đầy đủ hiệu quả và được thi hành trọn vẹn nơi Đức Giêsu, Đấng là lời đáp “có” cho mọi lời hứa xưa (x. 2 Cr 1,20).

Đặt Tên

12. Vào lúc cắt bì, Thánh Giuse đặt tên cho Con trẻ là “Giêsu.” Đây chính là cái tên duy nhất mang lại ơn cứu độ (x. Cv 4,12). Ý nghĩa của tên này đã được mạc khải cho Giuse vào lúc truyền tin: “Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (x. Mt 1,21). Khi đặt tên cho Con, Giuse chứng tỏ quyền làm cha hợp pháp của Ngài đối với Đức Giêsu, và khi gọi tên ấy, Ngài tuyên bố sứ mạng cứu độ của Hài nhi.

Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ

13. Nghi thức này, theo thánh Luca kể lại (2,22tt), bao gồm việc chuộc lại người con đầu lòng, và soi sáng ý nghĩa cho giai đoạn tương lai của Đức Giêsu khi ở lại trong Đền thờ lúc lên mười hai tuổi.

Việc chuộc lại người con đầu lòng là một nghĩa vụ nữa của người cha, mà Giuse đã lo chu toàn. Con đầu lòng tượng trưng cho dân của Giao ước vốn được chuộc khỏi ách nô lệ để thuộc về Thiên Chúa. Cũng vậy, chính Đức Giêsu là “giá chuộc” đích thực (x. 1 Cr 6,20; 7,23; 1 Pr 1,19) chẳng những đã chu toàn một nghi thức của Cựu ước, nhưng đồng thời vượt trên chính nghi thức ấy, bởi vì không phải Người được cứu chuộc mà chính Người là Đấng Cứu Chuộc.

Thánh sử ghi lại rằng “Cha mẹ Người ngạc nhiên vì những lời ông Simêon nói về Hài nhi” (Lc 2,33), đặc biệt vì những điều Simêon nói lên trong bài ca chúc tụng Thiên Chúa, trong đó, ông giới thiệu Đức Giêsu là: “ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân, là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, và là vinh quang của Israel Dân Ngài”, và xa hơn một chút, là “dấu hiệu cho người đời chống báng” (x. Lc 2,30-34).

Trốn sang Ai Cập

14. Sau biến cố dâng Đức Giêsu vào Đền thờ, thánh sử Luca ghi nhận: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê. Còn Hài nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,39-40).

Nhưng theo bản văn của Mátthêu, còn một biến cố rất quan trọng đã xảy ra trước khi họ trở về Galilê, biến cố trong đó Thiên Chúa quan phòng lại nhờ đến Giuse: “Khi các đạo sĩ đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài nhi đấy! ” (Mt 2,13) Khi các đạo sĩ từ phương Đông đến, Vua Hêrôđê biết được việc hạ sinh của “Đức Vua dân Do Thái” (Mt 2,22). Và khi các đạo sĩ đi rồi, ông “sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống” (Mt 2,16). Khi giết hết các hài nhi như thế, ông mong giết được Hài nhi “Vua dân Do Thái” mới sinh, mà ông đã nghe nói khi các nhà đạo sĩ đến thăm viếng ở triều đình. Vậy, sau khi được báo mộng, Giuse “đang đêm, đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: ‘Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập’” (Mt 2,14-15; x. Hs 11,1).

Như thế lộ trình của Chúa Giêsu từ Bêlem về Nadarét phải qua ngả Ai Cập. Cũng như Israel đã theo lộ trình xuất hành “từ thân phận nô lệ” để bắt đầu Giao ước cũ, thì Giuse, người được ký thác và cộng tác vào mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa, dù trong lưu đày, cũng đã chăm sóc Đấng thực hiện Giao ước mới.

Chúa Giêsu trong Đền thờ

15. Từ lúc Truyền tin, Thánh Giuse và Mẹ Maria, theo một nghĩa nào đó, đã ở trung tâm của mầu nhiệm được giấu kín từ muôn đời trong Thiên Chúa, và đã mặc lấy xác phàm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Người ở giữa loài người, và nơi Người hiện diện là Thánh gia Nadarét, một trong nhiều gia đình sinh sống tại thành phố nhỏ miền Galilê, một trong nhiều gia đình của đất Israel. Ở đó, Đức Giêsu “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40). Các Thánh sử chỉ tóm lược trong vài dòng thời gian dài “sống ẩn dật.” Trong khoảng thời gian này, Đức Giêsu tự chuẩn bị cho sứ mạng Thiên sai của mình.

Chỉ có một tình tiết trong “thời ẩn dật” này được Tin mừng Luca ghi lại: Lễ Vượt qua tại Giêrusalem khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi. Cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse, Đức Giêsu tham dự cuộc lễ như một thiếu niên trong đoàn hành hương. Và rồi, “Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết” (Lc 2,43). Sau một ngày đàng, hai ông bà mới nhận thấy lạc mất con và bắt đầu tìm kiếm “giữa đám bà con và người quen thuộc.” “Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Ðền thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu” (Lc 2,47). Mẹ Maria hỏi: “Con ơi, sao con lại làm như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48) Đức Giêsu trả lời một câu mà “ông bà không hiểu lời Người nói.” Người đã nói: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? ” (Lc 2,49-50)

Thánh Giuse, mà Mẹ Maria vừa gọi là “cha con” cũng nghe câu trả lời này. Thực vậy, mọi người đều nói và nghĩ: “Chúa Giêsu là con của Giuse” theo như người ta nghĩ (Lc 3,23). Câu trả lời của Chúa Giêsu trong Đền thờ ít nhiều đã làm sống lại trong tâm trí người “cha nuôi” câu nói mà Ngài đã nghe vào một đêm nọ, trước đó mười hai năm: “Giuse… đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.” Từ đó, Giuse biết mình là người được ký thác mầu nhiệm của Thiên Chúa, và hôm nay, khi lên mười hai tuổi, cậu Giêsu nhắc lại rõ ràng mầu nhiệm đó: ”Con có bổn phận ở nhà của Cha con.”

Đức Giêsu sinh sống và được dưỡng dục tại Nadarét

16. Đức Giêsu lớn lên “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52), được diễn ra trong khung cảnh Thánh gia, dưới sự chăm sóc của Thánh Giuse, người có trách nhiệm cao trọng “dưỡng dục”, nghĩa là lo cơm ăn áo mặc, và dạy Người về Lề Luật và một nghề nghiệp, theo bổn phận của một người cha.

Trong hiến tế Thánh Thể, Giáo hội kính nhớ Mẹ Maria trọn đời đồng trinh và Thánh Giuse[29] vì “Ngài đã nuôi dưỡng Đấng mà người tín hữu phải nhận lấy mà ăn như bánh trường sinh”[30].

Về phần mình, Đức Giêsu “hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2,51), kính cẩn đền đáp những chăm sóc của “cha mẹ Người.” Nhờ thế, Người muốn thánh hoá những bổn phận của đời sống gia đình và lao động mà Người thi hành bên cạnh Thánh Giuse.

III
NGƯỜI CÔNG CHÍNH – VỊ PHU QUÂN

17. Trong suốt cuộc sống, một cuộc lữ hành đức tin, Thánh Giuse cũng như Mẹ Maria, luôn trung thành đến cùng với tiếng gọi của Thiên Chúa. Trong khi cuộc đời Mẹ Maria là sự thể hiện tột cùng lời xin vâng đầu tiên được thốt lên lúc Truyền tin, còn Thánh Giuse như chúng ta đã nói, Ngài chẳng nói gì khi được “truyền tin”: mà chỉ “làm như sứ thần Chúa dạy” (Mt 1,24). Và “việc làm” đầu tiên này khai mào cho “lộ trình của Giuse.” Các sách Tin Mừng không ghi lại bất cứ lời nói nào của Thánh Giuse trong suốt hành trình này. Nhưng sự im lặng của Thánh Giuse có tầm mức đặc biệt: vì nhờ sự im lặng này chúng ta có thể hiểu được đầy đủ sự thật hàm chứa trong nhận định của Tin Mừng về Thánh Giuse: là “một người công chính” (Mt 1,19).

Cần phải hiểu rõ sự thật này, vì sự thật này chứa đựng một trong những chứng từ quan trọng nhất liên quan đến thân thế và ơn gọi của Ngài. Qua nhiều thế hệ, Giáo hội đã đọc những chứng từ này ngày càng chăm chú hơn với mức hiểu biết sâu xa hơn, dường như Giáo hội rút ra từ kho tàng của dung mạo đặc biệt này “cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13,52)

18. Trước hết, người “công chính” làng Nadarét có các tính chất rõ nét của một người chồng. Luca nói về Mẹ Maria như là “một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse” (Lc 1,27). Thậm chí trước khi “mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa” (Ep 3,9) bắt đầu được thành toàn, các sách Tin Mừng trình bày trước mắt chúng ta hình ảnh người chồng và người vợ. Theo phong tục Do Thái, hôn nhân chia thành hai giai đoạn: trước hết, người ta lập hôn thú theo pháp luật (hôn nhân thực sự) và sau đó một thời gian, người chồng mới đưa vợ về nhà mình. Do đó, trước khi chung sống với Mẹ Maria, Thánh Giuse đã là “chồng” của Mẹ Maria rồi. Tuy nhiên, Mẹ Maria vẫn giữ trong lòng ước muốn tận hiến cho Thiên Chúa. Người ta có thể thắc mắc làm sao ước muốn này của Mẹ Maria lại có thể tương thích với việc “hôn nhân” được. Câu trả lời chỉ có thể đến từ các biến cố cứu độ đã xảy ra do hành động đặc biệt của chính Thiên Chúa. Từ lúc Truyền tin, Mẹ Maria biết rằng Mẹ phải thể hiện mong ước sống khiết tịnh để tận hiến hoàn toàn và trọn vẹn chính mình cho Thiên Chúa bằng cách trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa. Trở thành người mẹ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần là một hình thức được Mẹ chấp nhận qua việc tự hiến, một hình thức được Thiên Chúa mong đợi nơi Trinh Nữ Maria, người đã “đính hôn” với Giuse. Mẹ Maria đã nói lên lời xin vâng. Sự kiện Mẹ Maria “đính hôn” với Giuse là một phần trong chính chương trình của Thiên Chúa. Điều này được hai Thánh sử Luca và nhất là Mátthêu nêu rõ. Những lời Thiên Chúa nói với Thánh Giuse rất có ý nghĩa: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Những lời này giải thích mầu nhiệm về người vợ của Giuse: Trong chức làm mẹ, Mẹ Maria là một trinh nữ. Nơi Mẹ,“Con của Đấng Tối Cao” mặc lấy xác phàm và trở thành “Con của loài người.”

Bài này đã được xem 482 lần!

Pages ( 2 of 4 ): <1 2 34>

BÌNH LUẬN

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]