Khi ngỏ lời với Thánh Giuse qua lời của sứ thần, Thiên Chúa nói với Ngài như nói với người chồng của Trinh nữ làng Nadarét. Điều xảy ra nơi Mẹ bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần cũng xác nhận một cách đặc biệt mối liên kết hôn nhân đã có giữa Thánh Giuse và Mẹ Maria. Sứ thần của Thiên Chúa đã nói rõ ràng với Thánh Giuse: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về.” Như thế, điều đã xảy ra trước đây, là cuộc hôn nhân giữa Thánh Giuse và Mẹ Maria, là do thánh ý Thiên Chúa và vì vậy phải được duy trì. Trong thiên chức Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Maria phải tiếp tục sống như “một trinh nữ đã đính hôn với một người nam” (x. Lc 1,27).
19. Trong những lời “truyền tin” vào ban đêm, Thánh Giuse không chỉ được nghe sự thật Thiên Chúa cho biết về ơn gọi khôn tả của vợ mình, mà còn được nghe lại một lần nữa sự thật về ơn gọi của chính mình. Trong tinh thần truyền thống cao quý nhất của Dân được tuyển chọn, con người “công chính” này đã yêu thương trinh nữ làng Nadarét và gắn bó với nàng bằng tình yêu của người chồng, một lần nữa, lại được Thiên Chúa kêu gọi để yêu thương như vậy.
“Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ” về nhà mình (Mt 1,24); vì người Con trong lòng Mẹ Maria là “bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.” Từ những kiểu nói như thế, chúng ta lại không thể kết luận rằng, nơi Thánh Giuse, tình yêu của một người nam, cũng được Chúa Thánh Thần đổi mới hay sao? Chúng ta lại chẳng nghĩ rằng tình yêu Thiên Chúa tuôn đổ xuống trái tim con người qua Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5) đã tác động vào mọi tình yêu nhân loại một cách hoàn hảo nhất hay sao? Tình yêu Thiên Chúa – theo một cách thế hoàn toàn độc đáo – cũng tác động vào tình yêu giữa chồng và vợ, làm sâu sắc thêm nơi tình yêu đó những gì là giá trị và tươi đẹp của con người, những gì chứng tỏ một tự hiến tuyệt đối, một giao ước liên vị, và một hiệp thông đích thực theo gương mẫu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
“Giuse… đón vợ về nhà; nhưng ông không ăn ở với bà, cho tới khi bà sinh một con trai” (Mt 1,24-25). Những lời này nói đến một nét thân mật khác trong hôn nhân. Sự mật thiết tinh thần sâu xa phát sinh từ hợp nhất hôn nhân và sự tiếp xúc liên vị giữa nam và nữ có nguồn gốc tối hậu trong Thánh Thần, Đấng ban sự Sống (x. Ga 6,63). Khi tuân lời Thánh Thần, Thánh Giuse gặp được nơi Thánh Thần cội nguồn tình yêu, tình yêu của một người chồng, và tình yêu này lớn lao hơn điều “người công chính” ấy đã từng mong đợi theo giới hạn con tim nhân loại của mình.
20. Trong Phụng vụ, Mẹ Maria được mừng kính như là người đã “kết hiệp với Giuse, người công chính, bằng mối dây liên kết hôn nhân và tình yêu tinh tuyền.”[31] Ở đây thực sự có hai loại tình yêu, cả hai đều biểu thị mầu nhiệm Giáo hội – trinh nữ và hiền thê, tượng trưng qua hôn nhân của Mẹ Maria và Thánh Giuse. “Sự trinh khiết và độc thân vì Nước Trời không làm giảm bớt chút nào phẩm giá của hôn nhân, ngược lại, chúng giả thiết phải có phẩm giá ấy và củng cố nó. Hôn nhân và trinh khiết là hai cách diễn tả và sống mầu nhiệm duy nhất của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người.”[32] Giao ước ấy là sự hiệp thông tình yêu giữa Thiên Chúa và loài người.
Qua sự tự hiến hoàn toàn, Thánh Giuse biểu lộ tình yêu quảng đại Ngài dành cho Mẹ Thiên Chúa, và tặng cho bà “món quà tự hiến” của một người chồng. Mặc dù Giuse đã quyết định rút lui để không cản trở kế hoạch Thiên Chúa đang diễn ra nơi Mẹ Maria, nhưng theo mệnh lệnh rõ ràng của sứ thần, Ngài đón Mẹ Maria về nhà mình, trong khi vẫn tôn trọng việc Mẹ chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi.
Đàng khác, do kết hôn với Mẹ Maria mà Thánh Giuse nhận được phẩm giá duy nhất và các quyền của mình đối với Đức Giêsu. “Chắc chắn phẩm giá của Mẹ Thiên Chúa cao quý đến độ không gì có thể trổi vượt hơn. Nhưng vì Thánh Giuse hợp nhất với Mẹ Maria bằng mối dây hôn nhân, nên không chút nghi ngờ rằng ngoài Thánh Giuse, chẳng có ai khác tiến gần đến mức phẩm giá cao quý ấy, mà nhờ đó Mẹ Thiên Chúa trổi vượt trên mọi thụ tạo. Vì hôn nhân là sự hiệp thông và tình bạn cao cả nhất, do chính bản chất đã bao hàm việc chia sẻ những điều thiện hảo, nên Thiên Chúa, khi ban tặng Thánh Giuse cho trinh nữ Maria, thì không chỉ như một người bạn đời, một chứng nhân cho sự trinh khiết hay người bảo vệ thanh danh của Mẹ, mà còn để Thánh Giuse có thể – nhờ giao ước hôn nhân – được chia sẻ sự vĩ đại trổi vượt của Mẹ nữa.”[33]
21. Mối dây đức ái đó đã làm nên nếp sống của Thánh gia, trước tiên nơi cảnh nghèo khó của Bêlem, rồi trong cuộc lưu lạc sang Ai Cập, và sau cùng trong đời sống tại Nadarét. Giáo hội tôn kính Gia đình thánh này một cách sâu xa, và đặt làm gương mẫu cho mọi gia đình. Gia đình Nadarét vừa hội nhập trực tiếp vào mầu nhiệm Nhập thể vừa làm nên một mầu nhiệm đặc biệt của riêng mình. Đồng thời, trong mầu nhiệm này – cũng như trong mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta thấy có tình phụ tử đích thực: gia đình của Con Thiên Chúa mang hình thức nhân loại, một gia đình trần thế thực sự, lại được hình thành bởi mầu nhiệm thánh. Trong gia đình này, Thánh Giuse là người cha: tư cách làm cha của Ngài không do việc sinh con; cũng chẳng phải làm cha “bề ngoài” hoặc chỉ “thay thế” mà thôi, nhưng có đầy đủ tính cách đích thực của quyền làm cha theo khía cạnh nhân loại và của vai trò làm cha trong gia đình. Ở đây ta nhận thấy một hệ quả của mầu nhiệm ngôi hiệp: nhân tính được hiệp nhất với Ngôi vị Thiên Chúa của Ngôi Lời, Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô. Và cùng với nhân tính ấy, tất cả những gì thuộc về con người, đặc biệt là gia đình, như là khung cảnh đầu tiên của con người nơi trần thế này, cũng được “tiếp nhận” vào trong Đức Kitô. Trong bối cảnh đó, cả quyền làm cha theo khía cạnh con người của Thánh Giuse cũng được “tiếp nhận” trong mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô. Trên cơ sở nguyên tắc này, những lời Mẹ Maria nói với con trẻ Giêsu trong Đền thờ mang một ý nghĩa sâu xa: “Cha con và mẹ… đi tìm con.” Đây không phải là câu nói chiếu lệ: Những lời của Mẹ Đức Giêsu bày tỏ đầy đủ thực tại của việc Nhập thể hiện diện trong mầu nhiệm Gia đình Nadarét. Ngay từ đầu, khi “vâng phục trong đức tin”, Thánh Giuse đã chấp nhận vai trò làm cha trần thế của Đức Giêsu. Và vì thế nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng ban chính mình Ngài cho con người qua đức tin, chắc chắn Thánh Giuse ngày càng khám phá trọn vẹn hơn món quà khôn tả là vai trò làm cha của mình.
IV
LAO ĐỘNG, MỘT CÁCH DIỄN TẢ TÌNH YÊU
22. Lao động là một trong những biểu hiện thường nhật của tình yêu trong cuộc sống Gia đình Nadarét. Bản văn Tin Mừng nói rõ loại công việc mà Thánh Giuse làm để nuôi sống gia đình mình: nghề thợ mộc. Từ đơn giản này tóm gọn toàn bộ cuộc sống của Thánh Giuse. Đối với Đức Giêsu, đây là những năm ẩn dật, những năm mà Tin Mừng nói đến sau câu chuyện xảy ra trong Đền thờ: “Và Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51). Sự “phục tùng” hoặc vâng lời của Đức Giêsu trong nhà Nadarét cần được hiểu như là một sự chia sẻ trong lao động với Giuse. Trong khi học việc với người được coi là cha mình, Đức Giêsu được gọi là “con của ông thợ mộc.” Nếu Gia đình Nadarét là tấm gương và là mẫu mực cho các gia đình khác trong việc cứu độ và nên thánh, thì lao động của Đức Giêsu bên cạnh ông thợ mộc Giuse cũng tương tự như thế. Trong thời đại chúng ta, ngoài các ý nghĩa khác, Giáo hội nhấn mạnh đến giá trị lao động bằng cách quy định phụng vụ kính Thánh Giuse Thợ vào ngày 1 tháng Năm. Lao động của con người, nhất là lao động tay chân, được đặc biệt nhấn mạnh trong Tin Mừng. Cùng với nhân tính của Con Thiên Chúa, lao động cũng được đưa vào trong mầu nhiệm Nhập thể, và cũng được cứu chuộc theo cách đặc biệt. Tại xưởng mộc nơi Ngài miệt mài làm việc với Đức Giêsu, Thánh Giuse đưa lao động con người đến gần mầu nhiệm Cứu chuộc hơn.
23. Trong thời gian Chúa Giêsu lớn lên “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa”, có một đức tính rất quan trọng: lương tâm nghề nghiệp, vì “lao động là điều thiện hảo nơi con người”, nó “biến đổi thiên nhiên” và biến con người “theo một nghĩa nào đó, thành người hơn.”[34] Tầm quan trọng của lao động trong đời sống con người đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt và tiếp thu các yếu tố của nó để “giúp mọi người đến gần hơn với Thiên Chúa, Đấng Tạo hoá và là Đấng Cứu chuộc, để tham dự vào kế hoạch cứu độ con người và thế giới, và để đào sâu hơn tình bạn với Đức Kitô trong cuộc sống của họ, qua việc tham dự bằng đức tin sống động vào ba sứ vụ của Người là: Tư tế, Ngôn sứ và Vương giả.”[35]
24. Cuối cùng là việc thánh hoá cuộc sống hằng ngày, một sự thánh hoá mà mỗi người phải đạt được tuỳ theo bậc sống của mình, theo một mẫu gương mà ai cũng có thể bắt chước: “Thánh Giuse là gương mẫu của những người khiêm hạ mà Kitô giáo có thể dẫn đưa tới những vận mệnh cao cả; Ngài là bằng chứng cho thấy rằng để trở thành một môn đệ tốt và chân chính của Đức Kitô, không cần phải làm những “việc vĩ đại”: chỉ cần các nhân đức thông thường, đơn sơ và nhân bản, nhưng phải là những nhân đức thực sự và chân chính.”[36]
V
TÍNH ƯU VIỆT CỦA ĐỜI SỐNG NỘI TÂM
25. Bầu khí thinh lặng bao quanh những gì liên quan đến khuôn mặt Thánh Giuse cũng lan tỏa đến công việc của người thợ mộc trong mái nhà Nadarét. Tuy nhiên, chính sự thinh lặng ấy bộc lộ cách đặc biệt chân dung nội tâm của Ngài. Các sách Tin Mừng chỉ đề cập đến những việc Giuse “làm”, nhưng cho phép chúng ta khám phá trong những ”hoạt động” của Ngài, luôn thấm nhuần sự thinh lặng, một bầu khí chiêm niệm sâu xa. Thánh Giuse vẫn tiếp xúc hằng ngày với mầu nhiệm “bị che giấu từ bao đời,” và đang “cư ngụ” dưới mái nhà của Ngài. Điều này giải thích, chẳng hạn, tại sao thánh nữ Têrêsa Giêsu, nhà cải tổ lớn của các Nữ tu dòng chiêm niệm Cát Minh, lại đã trở nên người cổ võ việc sùng kính Thánh Giuse trong Kitô giáo Tây phương.
26. Trong suốt cuộc đời, Thánh Giuse đã thể hiện một sự hiến dâng tuyệt đối cuộc sống để đáp ứng những đòi hỏi của Đấng Thiên sai đến trong nhà mình, điều này chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng đời sống nội tâm sâu xa của Ngài mà thôi. Chính từ cuộc sống nội tâm này mà “những mệnh lệnh và an ủi rất đặc biệt mang đến cho Ngài lý luận và sức mạnh mà chỉ những tâm hồn đơn sơ và trong sáng mới có và giúp Ngài có sức đưa ra những quyết định quan trọng, như quyết định ngay lập tức đặt tự do của mình trước sự an bài của Thiên Chúa, cũng như trao phó vào tay Thiên Chúa an bài ơn gọi nhân bản chính đáng, hạnh phúc hôn nhân của mình, để chấp nhận các điều kiện, trách nhiệm và gánh nặng của một gia đình, và từ khước tình yêu đôi lứa tự nhiên vốn là nền tảng nuôi dưỡng gia đình, để chọn một tình yêu trinh khiết không thể sánh ví.[37]
Thái độ phục tùng Thiên Chúa như thế là ý muốn mau mắn tận hiến tất cả để phục vụ Thiên Chúa, không gì khác hơn là thể hiện lòng nhiệt thành làm nên một trong những cách diễn tả của nhân đức thờ phượng.[38]
27. Đời sống hiệp thông giữa Thánh Giuse và Đức Giêsu còn giúp chúng ta nhìn ngắm mầu nhiệm Nhập thể chính xác dưới khía cạnh nhân tính của Đức Kitô, là phương tiện hữu hiệu thiên tính Người dùng để thánh hoá con người: “Nhờ thiên tính, các hành động nhân loại của Đức Kitô có sức cứu độ chúng ta, phát sinh ơn sủng cho chúng ta, hoặc do công phúc hoặc do hiệu năng.”[39] Trong các hành động này, các tác giả Tin Mừng nêu bật những gì liên quan tới Mầu nhiệm Vượt qua, nhưng cũng không quên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp xúc thể lý với Chúa Giêsu để được chữa lành (ví dụ x. Lc 1,41), và ảnh hưởng Chúa Giêsu tác động trên Gioan Tẩy giả khi cả hai người còn trong lòng mẹ (x. Lc 1,41-44). Như chúng ta đã thấy, khi làm chứng cho Đức Kitô, các tông đồ đã không bỏ qua câu chuyện Đức Giêsu giáng sinh, việc cắt bì, dâng vào Đền thờ, trốn sang Ai Cập và cuộc sống ẩn dật ở Nadarét. Các ngài nhìn nhận “mầu nhiệm” của ơn sủng hiện diện trong từng “hành động” cứu độ này, vì chúng đều chia sẻ cùng một nguồn tình yêu: thiên tính của Đức Kitô. Nếu qua nhân tính của Đức Kitô, tình yêu này rực sáng trên mọi người, những người được thừa hưởng đầu tiên chắc chắn là những người mà thánh ý Chúa đã muốn liên kết mật thiết nhất với chính tình yêu này: Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu, và Thánh Giuse, người được xem là cha của Người.[40] Làm sao tình yêu “phụ tử” của Thánh Giuse lại không ảnh hưởng đến tình yêu “con thảo” của Đức Giêsu, và ngược lại, làm sao tình yêu “con thảo” của Đức Giêsu lại không ảnh hưởng đến tình yêu “phụ tử” của Thánh Giuse được? để từ đó có thể thấu hiểu được chiều sâu của mối tương quan hết sức đặc biệt ấy? Những tâm hồn nhạy cảm nhất đối với tác động tình yêu Thiên Chúa sẽ thực sự tìm thấy nơi Thánh Giuse một mẫu gương sáng chói của đời sống nội tâm.
Hơn nữa, sự giằng co rõ ràng giữa đời hoạt động và đời chiêm niệm đã được dung hoà một cách lý tưởng nơi Thánh Giuse, như chỉ có thể xảy ra nơi những người có đức ái hoàn hảo mà thôi. Theo sự phân biệt nổi tiếng của thánh Augustinô giữa lòng yêu mến chân lý (caritas veritatis) và những đòi hỏi của tình yêu (necessitas caritatis),[41] chúng ta có thể nói rằng Thánh Giuse đã cảm nghiệm được lòng yêu mến chân lý, nghĩa là tình yêu tinh tuyền chiêm ngắm Chân lý thần linh chiếu toả từ nhân tính của Đức Kitô và cũng cảm nghiệm được những đòi hỏi của tình yêu, nghĩa là tình yêu tinh tuyền phục vụ, cần thiết cho ơn gọi bảo vệ và phát triển chính nhân tính Đức Giêsu, vốn gắn kết chặt chẽ với thần tính của Người.
VI
ĐẤNG BẢO TRỢ HỘI THÁNH NGÀY NAY
28. Trong những thời kỳ khó khăn của lịch sử Giáo hội, Đức thánh cha Piô IX, vì muốn đặt Giáo hội dưới sự bảo trợ đặc biệt của thánh tổ phụ Giuse, nên đã công bố Ngài là “Đấng Bảo trợ của Giáo hội Công giáo”[42]. Đức Piô IX biết rằng quyết định của mình không phải là không hợp thời, bởi vì, do phẩm giá cao vời Thiên Chúa đã ban cho người tôi tớ tín trung nhất là Thánh Giuse, “Giáo hội, – chỉ sau hiền thê của Ngài là Đức Trinh nữ – luôn trọng kính, ca tụng, cách riêng, chạy đến với Ngài trong những lúc gian nan[43].
Lý do nào dẫn tới sự tín nhiệm lớn lao ấy? Đức Lêô XIII đã đã kể ra những lý do như sau: “Những lý lẽ và những nguyên do đặc biệt đã nhìn nhận Thánh Giuse là Đấng Bảo trợ của Giáo hội và khiến cho Giáo hội hy vọng rất nhiều vào sự che chở và bảo hộ của Ngài là: Thánh Giuse là phu quân của Đức Maria và là cha nuôi của Đức Giêsu. […]. Xưa kia, Thánh Giuse đã là người gìn giữ, quản lý, người bảo vệ hợp pháp và tự nhiên ngôi nhà của Thiên Chúa mà thánh nhân là người đứng đầu […]. Do đó, như xưa kia, Thánh Giuse đã lo liệu tất cả những nhu cầu của gia đình Nadarét và che chở gia đình đó một cách thánh thiện, thì ngày nay, thật là hợp lý và chính đáng, từ trời cao Ngài cũng che chở và bảo vệ Giáo hội Đức Kitô như vậy”[44].
29. Giáo hội cần phải luôn kêu cầu Thánh Giuse bảo trợ, không chỉ để bảo vệ chống lại mọi nguy hiểm không ngừng nảy sinh, mà nhất là còn để nâng đỡ Giáo hội trong những nỗ lực khó khăn nhằm rao giảng Tin Mừng cho thế giới và tái truyền giáo tại các nước và các quốc gia – như tôi đã viết trong Tông huấn Christifideles Laici (Kitô hữu giáo dân) – nơi mà “trước đây tôn giáo và sức sống Kitô giáo hết sức phong phú”… nhưng ngày nay đang gặp thử thách nặng nề.”[45] Để đem lời rao giảng đầu tiên về Đức Kitô, hoặc để giới thiệu lại Đức Kitô cho những nơi đã đánh mất hay bỏ quên Tin Mừng, Giáo hội cần đến “quyền năng đặc biệt từ trời cao ban xuống” (cf. Lc 24,49; Cv 1,8): đó chắc chắn là ân huệ của Chúa Thánh Thần, nhưng cũng cần đến lời chuyển cầu và gương mẫu của các Thánh.
Bài này đã được xem 484 lần!