TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG QUERIDA AMAZONIA (AMAZON YÊU QUÝ)

42. Việc chăm sóc con người và hệ sinh thái không thể tách rời nhau, điều này càng rõ ràng hơn nữa ở nơi mà “rừng không được coi như nguồn tài nguyên để khai thác hưởng lợi, mà là một hữu thể, hay là nhiều hữu thể mà ta phải tương tác” (49). Sự khôn ngoan của các bộ tộc hoang sơ vùng Amazon “gợi hứng việc chăm sóc và tôn trọng thế giới thụ tạo, ý thức rõ rệt về các giới hạn của nó cũng như cấm lạm dụng nó. Lạm dụng thiên nhiên có nghĩa là lạm dụng các tiền nhân, các anh chị em khác, lạm dụng chính Đấng Tạo Hoá, và đánh cược tương lai” (50). Các thổ dân, “khi bám trụ trên lãnh thổ của họ, là những người chăm sóc thiên nhiên tốt nhất” (51), miễn là họ đừng để mình bị lừa gạt bởi những lời đường mật và những lời chào hàng nguy hiểm của các nhóm quyền lực. Việc phá huỷ thiên nhiên tác động đến họ trực tiếp và rõ ràng, vì họ nói rằng: “Chúng tôi là nước, khí, đất và là sự sống của thế giới thụ tạo của Thiên Chúa. Vì thế, chúng tôi xin các vị ngừng tàn phá và huỷ diệt Mẹ Đất. Trái đất có máu và nó đang chảy máu, các công ty đa quốc gia đã cắt các mạch máu của Đất Mẹ” (52).

Ước mơ về nước

43. Trong vùng Amazon, nước là nữ vương, các con sông con suối là các mạch máu, và mọi hình thái sự sống đều bắt nguồn từ đó:

“Ở đó, khi giữa mùa hè nóng như thiêu đốt, khi những đợt gió đông cuối cùng thổi về, tan loãng vào bầu khí tù hãm, thì cái ẩm kế thay cho cái nhiệt kế trong việc báo hiệu thời tiết. Các sinh vật lệ thuộc vào sự thay đổi ác nghiệt của dòng thủy lưu các con sông lớn. Các cơn lũ lụt rất kinh khủng. Dòng sông Amazon chảy tràn bờ và chỉ trong vài ngày, đã dâng cao mực nước… Ngập lụt làm mọi thứ ngừng lại. Mắc kẹt dưới những tán lá dầy đặc của những con rạch nhỏ, con người, với một sự nhẫn nhục hiếm hoi trước nghịch cảnh không thể tránh khỏi, chỉ biết chờ đợi cái “mùa đông” nghịch lý, “mùa đông” nóng nực này cái kết thúc. Khi nước rút xuống, thì đó là mùa hè. Đó là lúc xuất hiện lại các hoạt động hoang sơ của con người những vùng này, họ chiến đấu hết sức trước một thiên nhiên có biểu lộ mâu thuẫn khốc liệt đến độ khiến cho mọi nỗ lực không thể tiếp tục” (53).

44. Dòng nước lấp lánh của sông Amazon vĩ đại tiếp nhận và làm sống động mọi thứ xung quanh:
“Này Amazon hỡi,
là đầu mục các con nước,
cha và tổ phụ,
Từ Người huyền bí trường cửu
sự sống sinh sôi nảy nở;
các con sông dòng suối tụ về Người như những cánh chim bay lượn tìm về cố hương” (54).

45. Sông Amazon cũng là xương sống, tạo ra sự hài hoà và thống nhất: “Dòng sông không ngăn cách chúng tôi, nó liên kết và giúp chúng tôi sống cùng nhau giữa những khác biệt về văn hoá và ngôn ngữ” (55). Cái trục chính nối liền các “vùng Amazon” khác nhau là con sông Cả, nguồn của nhiều con sông khác:

“Từ đỉnh những dải núi cao, nơi mà tuyết không bao giờ tan, nước chảy xuống, vạch ra thành dòng run rẩy tưới trên tấm thân da dẻ lâu đời của đất đá: dòng sông Amazon được sinh ra. Nó được sinh ra mỗi giây phút. Nó chảy xuống chậm rãi, lấp lánh ẩn hiện quanh co, lớn dần và phình ra trên đất cát đồng bằng, dào dạt tưới đổ một không gian xanh tươi, nó tự vẽ ra con đường cho mình và tiếp tục kéo dài. Nước ngầm dưới đất vọt lên ôm lấy nước đổ xuống từ dãy núi Andes. Từ bụng những đám mây trắng ngần bị gió cuốn đi, nước đổ mưa xuống từ trời. Nước tụ lại rồi tiếp tục chảy, phân thành vô số nhánh nhỏ, tắm mát cho những cánh đồng bao la… Đây là vùng Amazon vĩ đại, bao phủ vùng đất nhiệt đới ẩm ướt bằng những cánh rừng rậm bao la rực rỡ, chưa từng bị bàn tay con người chạm đến, đập nhịp sự sống đan dệt thâm sâu bởi những mạch nước chảy ri rỉ … Từ khi con người đến sống nơi đây, từ trong lòng nước sâu thẳm, chảy ngang qua trái tim của rừng rậm, xuất hiện một nỗi e sợ khủng khiếp: rằng sự sống nơi đây đang bị bức tử, tuy chầm chậm nhưng chắc chắn” (56).

46. Những nhà thơ nổi tiếng, phải lòng vẻ đẹp kỳ vĩ của vùng đất này, đã cố gắng diễn tả những cảm xúc mà dòng sông này đã gợi lên, diễn tả sự sống mà nó trao ban trong dòng chảy của nó, giữa những điệu nhảy của cá heo, trăn anaconđa, cây cối và thuyền canô. Nhưng những nhà thơ đó cũng than khóc về những nguy hiểm đang đe doạ dòng sông. Họ là những nhà chiêm niệm và ngôn sứ, giúp ta thoát khỏi lối suy nghĩ mang tính kỹ trị và tiêu thụ, vốn chỉ nhắm phá hoại thiên nhiên và tước mất của chúng ta một cuộc sống xứng với phẩm giá đích thực của mình:

“Thế giới đang đau đớn vì bàn chân con người biến thành cao su, cẳng chân thành đồ da, thân thể thành vải vóc, và đầu tóc thành sắt thép… Thế giới đang đau khổ vì mai thuổng bị biến thành súng ống, lưỡi cày thành xe tăng; hình ảnh người nông dân gieo hạt nhường chỗ cho hình ảnh những cái máy khạc lửa đạn, chỉ toàn gieo rắc hoang vu. Chỉ cung giọng nhẹ nhàng của thi ca mới có thể cứu thế giới này” (57).

Tiếng kêu khóc của vùng Amazon

47. Thi ca gióng lên tiếng lòng đau đớn của nhiều người chúng ta ngày nay. Sự thật rành rành trước mắt là, với cách người ta đối xử với vùng lãnh thổ Amazon như hiện tại, thì bao nhiêu sự sống, và vẻ đẹp đang bị hủy diệt, cho dù nhiều người vẫn muốn tin rằng chẳng có gì nghiêm trọng xảy ra cả:

“Ai nghĩ rằng dòng sông chỉ là một sợi dây để vui chơi, họ đã lầm.
Dòng sông là mạch máu rất tinh tế tưới tắm trên bề mặt trái đất…
Dòng sông là mối dây kết nối các thú vật và cây cỏ.
Nếu bị kéo quá căng, dòng sông sẽ đứt gãy,
Sẽ tràn bờ và tắm gội chúng ta bằng nước và máu” (58).

48. Sự cân bằng sinh thái của địa cầu lệ thuộc vào sức khoẻ của vùng Amazon. Cùng với các vùng sinh thái như Công gô và Bornêo, Amazon chói chang với những cánh rừng già xanh thẳm, đa dạng, tuyệt vời, điều hoà mưa gió và khí hậu, cùng là nơi sinh sống của vô số loài sinh thể khác nhau. Nó có chức năng như một bộ lọc thán khí vĩ đại, giúp tránh hiệu ứng đốt nóng địa cầu. Trên hầu hết vùng lãnh thổ này, bề mặt đất rất nghèo mùn hữu cơ, vì thế những cánh rừng “thực sự mọc trên đất, chứ không mọc từ đất” (59). Khi rừng bị phá huỷ, nó không thể mọc lên cây mới, vì những gì còn lại chỉ là khoảng đất nghèo chất dinh dưỡng, dần sẽ biến thành đất khô hoặc đất cằn cỗi, không thể canh tác. Điều này thật nghiêm trọng, vì trong lòng những cánh rừng Amazon là vô số nguồn dược thảo giúp chữa các loại bệnh tật. Cá mú, hoa quả và vô vàn tặng phẩm khác, rất giàu chất dinh dưỡng cho con người. Hơn nữa, trong một hệ sinh thái như vùng Amazon, mỗi bộ phận là thiết yếu cho việc duy trì toàn bộ hệ thống. Việc canh tác ở vùng đồng bằng và duyên hải cũng cần được phù sa vùng Amazon chăm bón. Tiếng khóc than của vùng Amazon chạm đến mọi người, bởi vì “việc chinh phục và khai thác nguồn tài nguyên… ngày nay đã đe doạ chiều kích thân thiện của môi trường: môi trường như là ‘tài nguyên’, đe doạ môi trường như là ‘nhà ở’” (60). Lợi nhuận của một số ít doanh nghiệp hùng mạnh không được xem là quan trọng hơn công ích của vùng Amazon và của toàn nhân loại.

49. Nếu chỉ quan tâm bảo vệ một số loài mà ta thấy rõ ràng là chúng đang bị tuyệt chủng, điều này chưa đủ. Chúng ta rất cần ý thức rằng “để có thể vận hành tốt, hệ sinh thái đòi phải có các loài nấm tảo, giun dế, sâu bọ, bò sát và vô số những loài vi sinh vật khác. Một số loài tuy chỉ là thiểu số, nhỏ bé và dù không được nhìn thấy, vẫn có thể giữ một vai trò then chốt trong việc duy trì sự cân bằng của một vùng” (61). Điều này rất dễ bị bỏ qua khi ta đánh giá mức ảnh hưởng trên môi trường của các dự án kinh tế trong việc khai thác khoáng sản, năng lượng, gỗ và các kỹ nghệ khác, vốn chỉ phá huỷ và gây ô nhiễm. Cũng vậy, nguồn nước phong phú trong vùng Amazon là một thiện ích thiết yếu cho sự tồn vong của nhân loại, nhưng các nguồn nước đang ngày càng bị ô nhiễm nhiều hơn (62).

50. Thật vậy, ngoài lợi ích kinh tế của một số thương gia và chính trị gia địa phương, còn có các “lợi ích kinh tế toàn cầu” (63). Vì thế, giải pháp không nằm ở chỗ “quốc tế hoá” vùng Amazon (64), mà ở ý thức trách nhiệm lớn hơn của chính quyền các quốc gia. Về việc này, “rất đáng ca ngợi sự dấn thân của các tổ chức quốc tế và dân sự đã nỗ lực kêu gọi sự chú ý của công chúng về những vấn đề này và hợp tác cách sáng suốt, tạo sức ép hợp lệ, để bảo đảm chính quyền mỗi quốc gia phải thực thi trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia mình, mà không phải nhượng bộ trước lợi ích bất hợp pháp của các nhóm địa phương và quốc tế” (65).

51. Để bảo vệ vùng Amazon, chúng ta cần kết hợp sự khôn ngoan của bậc tiền nhân với kiến thức kỹ thuật hiện đại, phải luôn tìm cách quản lý và sử dụng đất đai cách bền vững, đồng thời bảo toàn lối sống và các hệ thống giá trị của những cư dân ở đó (66). Họ, đặc biệt là các bộ tộc thổ dân, có quyền được giáo dục cơ bản, được nhận những thông tin xuyên suốt, minh bạch về các dự án, tầm mức, hậu quả cũng như nguy cơ của chúng. Nhờ đó, họ có thể liên hệ các thông tin đó với lợi ích của họ và với kiến thức của họ về địa bàn này; để rồi sau đó họ có thể đồng thuận hay từ chối dự án hoặc đề nghị những phương án khác (67).

52. Những người có quyền lực không bao giờ hài lòng về lợi nhuận họ đạt được và nguồn tài nguyên của các quyền lực kinh tế ngày càng gia tăng nhờ vào tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Vì thế, tất cả chúng ta cần nhấn mạnh nhu cầu khẩn thiết phải thiết lập “một hệ thống pháp lý, thiết lập rõ ràng các giới hạn cuối cùng và bảo đảm hệ sinh thái được bảo vệ… nếu không, các cấu trúc quyền lực mới, dựa trên lối suy nghĩ thuần kinh tế kỹ thuật, sẽ áp đảo không chỉ nền chính trị mà cả công lý và tự do của chúng ta nữa” (68). Nếu Thiên Chúa mời gọi chúng ta lắng nghe tiếng kêu khóc của cả người nghèo lẫn trái đất (69), thì đối với chúng ta, “tiếng kêu khóc của vùng Amazon lên Đấng Tạo Hoá tương tự như tiếng kêu gào của dân Chúa trên đất Ai Cập (cf. Xh 3,7). Đó là tiếng khóc của những người bị bỏ rơi trong kiếp nô lệ, kêu gào xin được tự do”(70).

Lời ngôn sứ về sự chiêm niệm

53. Chúng ta thường để cho lương tâm mình bị chai cứng, bởi vì “sự sao nhãng, mất tập trung thường xuyên làm ta mất nhận thức về sự giới hạn và hữu hạn của thế giới” (71). Với cái nhìn hời hợt, chúng ta thường nghĩ rằng “mọi thứ không đến nỗi quá nghiêm trọng, trái đất vẫn tiếp tục tồn tại như thế này mà thôi. Sự lảng tránh như thế cho phép ta tiếp tục duy trì lối sống hiện tại, mô hình sản xuất và tiêu thụ của mình. Đây là cách con người xoay xở để duy trì những tật xấu tai hại của mình: cố ý không nhìn thấy những tật xấu đó, cố ý không thừa nhận chúng, trì hoãn những quyết định quan trọng và giả vờ như không có gì xảy ra” (72).

54. Thêm vào đó, tôi muốn lưu ý rằng mỗi loài sinh vật có giá trị tự thân, tuy nhiên, “mỗi năm có cả ngàn loại cây và thú vật biến mất, những loài mà ta không bao giờ biết, con cháu ta không bao giờ được thấy, bởi vì chúng đã bị tuyệt chủng. Đa số những loài đó diệt vong vì những lý do liên hệ tới hoạt động của con người. Do chúng ta mà cả ngàn loài sinh vật đã không còn có thể làm vinh danh Thiên Chúa bằng hiện hữu của mình nữa hay có thể truyền thông điệp sáng tạo đến chúng ta nữa. Chúng ta không được phép làm như vậy” (73).

55. Từ những thổ dân, chúng ta học cách chiêm ngắm vùng Amazon, chứ không chỉ nghiên cứu nó; nhờ đó mà cảm nhận được huyền nhiệm quý báu siêu vượt trên chúng ta. Chúng ta có thể yêu mến vùng đất này, chứ không chỉ là sử dụng nó, để tình yêu có thể đánh thức mối quan tâm sâu xa và chân thành. Hơn nữa, chúng ta có thể cảm nhận mình là một phần của nó, chứ không chỉ nhắm bảo vệ nó; như thế, vùng Amazon có thể một lần nữa trở nên như Mẹ của chúng ta. Bởi vì, “chúng ta không nhìn thế giới từ bên ngoài, nhưng từ bên trong, ý thức mối ràng buộc mà Cha trên Trời đã nối kết chúng ta với mọi loài sinh linh” (74).

56. Hãy đánh thức cảm thức mỹ thuật và chiêm niệm được Thiên Chúa ban cho và đặt để trong ta nhưng đã bị ta làm cho ra nhạt đi. Hãy nhớ rằng “nếu ai đó đã không biết dừng chân để thưởng lãm và ca tụng một vẻ đẹp thì không lạ gì người đó sẽ xem mọi vật chỉ như là đồ vật để sử dụng và lạm dụng, mà không hề áy náy lương tâm” (75). Ngược lại, nếu ta kết hợp thông hiệp với cánh rừng, giọng nói của ta sẽ dễ dàng hoà trộn với giọng nói của rừng và trở thành lời cầu nguyện: “khi dừng chân dưới bóng một cây bạch đàn cổ thụ, lời cầu nguyện của chúng tôi, cầu xin ánh sáng, hoà lẫn với bài ca của các tán lá” (76). Cuộc hoán cải nội tâm này sẽ giúp chúng ta có thể khóc cho vùng Amazon và cùng với nó, kêu thấu tới Chúa.

57. Chúa Giêsu nói: “Liệu không phải năm con chim sẻ chỉ bán được hai đồng xu sao? Thế mà không con nào bị Thiên Chúa quên lãng” (Lc 12,6). Thiên Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn loài với tình yêu vô biên, mời gọi chúng ta trở nên tai của Ngài để giúp Ngài lắng nghe tiếng kêu khóc của vùng Amazon. Nếu đáp lại tiếng kêu cứu não nề này, chúng ta sẽ cho thấy rõ Cha trên trời không hề bỏ quên các thụ tạo ở vùng Amazon. Đối với các Kitô hữu, chính Chúa Giêsu chất vấn chúng ta từ tạo vật của Ngài, “bởi vì Đấng Phục sinh đang ôm chúng vào lòng và dẫn đưa chúng đến cùng đích viên mãn. Cả hoa đồng cỏ nội và chim chóc mà chính mắt Ngài đã từng chiêm ngắm khi còn ở dương thế này, nay được tràn đầy sự hiện diện rạng rỡ của Ngài”(77). Vì thế, tín hữu chúng ta gặp nơi vùng Amazon một nguồn cảm hứng cho thần học, một không gian, nơi mà Thiên Chúa mạc khải chính Mình và tụ họp con cái Ngài.

Giáo dục và hình thành tập quán sinh thái

58. Về điều này, chúng ta có thể đi một bước xa hơn, nhớ rằng một sinh thái luận toàn diện không chỉ bằng lòng với việc tìm giải quyết những vấn đề kỹ thuật hay các quyết định mang tính chính trị, pháp lý và xã hội. Sinh thái luận tốt nhất luôn bao gồm một bình diện giáo dục, khuyến khích các cá nhân và cộng đoàn phát huy các tập quán mới. Đáng buồn thay, nhiều người trong vùng Amazon đã học nhiễm những tập quán đặc thù của các thành phố lớn, quá quen với lối sống tiêu thụ và văn hoá sử dụng hoang phí. Sẽ không thể có một sinh thái luận lành mạnh và bền vững, có thể thay đổi tình hình, nếu như con người không thay đổi, không được khuyến khích chọn một lối sống khác, ít tham lam và thanh thản hơn, tôn trọng và ít lo lắng hơn, huynh đệ hơn.

59. Thật vậy, “khi trái tim con người càng trống rỗng, họ càng cần phải mua sắm, sở hữu và tiêu thụ nhiều thứ. Họ khó có thể chấp nhận giới hạn của thực tại… Chúng ta không chỉ bận tâm đến sự đe doạ của các thiên tai về mặt khí hậu, mà cả những hậu quả tàn khốc của sự bất ổn xã hội. Ám ảnh với lối sống tiêu thụ, nhất là khi ít có người duy trì được lối sống đó, sẽ chỉ dẫn đến bạo lực và hủy diệt lẫn nhau” (78).

60. Giáo hội, với kinh nghiệm thiêng liêng phong phú, với sự canh tân trong việc trân trọng giá trị của tạo thành, với bận tâm về công bình, với bận tâm ưu tiên chọn lựa người rốt hết, với truyền thống giáo dục, với lịch sử hội nhập vào các nền văn hoá khác nhau trên toàn cầu; với tất cả những điều đó, Giáo hội cũng ao ước đóng góp vào việc bảo vệ và phát triển vùng Amazon.

Điều này dẫn đến ước mơ tiếp theo mà tôi muốn chia sẻ riêng với các mục tử và giáo dân của Giáo hội Công giáo.

CHƯƠNG BỐN
MỘT ƯỚC MƠ GIÁO HỘI

61. Giáo hội được kêu gọi đồng hành với các dân tộc vùng Amazon. Tại Châu Mỹ Latinh, việc đồng hành này đã được lưu tâm đặc biệt, chẳng hạn Hội nghị các Giám mục diễn ra tại Medellín (1968) và việc áp dụng cho vùng Amazon ở Santarem (1972) (79); sau đó là Puebla (1979), Santo Domingo (1992) và Aparecida (2007). Việc đồng hành này vẫn đang tiếp diễn, và nếu muốn trình bày một Giáo hội với khuôn mặt Amazon, thì công cuộc truyền giáo phải được khai triển trong một nền văn hoá gặp gỡ hướng đến một sự “hài hoà đa dạng” (80). Tuy nhiên, để Giáo hội và Tin Mừng có thể nhập thể, lời loan báo truyền giáo vĩ đại phải không ngừng vang dội, luôn mãi.

Bài này đã được xem 375 lần!

Pages ( 3 of 7 ): <12 3 45 ... 7>

BÌNH LUẬN

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]