TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG QUERIDA AMAZONIA (AMAZON YÊU QUÝ)

103. Trong một Giáo hội hiệp hành, các phụ nữ đóng một vai trò chính yếu trong những cộng đoàn Amazon, phải được giữ những chức vụ, kể cả những chức vụ để phục vụ Giáo hội. Những chức vụ này không đòi hỏi phải có chức thánh và cho phép họ tỏ rõ địa vị của họ hơn. Cũng nên nhắc lại rằng, những việc phục vụ này cần phải bền lâu, được công chúng nhìn nhận và được Giám mục sai đi. Điều đó cũng để cho các phụ nữ có một ảnh hưởng thực sự và hữu hiệu trong tổ chức, trong các quyết định quan trọng nhất và trong việc hướng dẫn các cộng đoàn, nhưng không ngừng làm việc ấy với phong cách riêng của dấu ấn nữ giới.

Mở rộng những chân trời vượt qua những xung đột

104. Tại một số nơi cụ thể, thường xảy ra là những người làm mục vụ thoáng thấy những giải pháp rất khác biệt cho những vấn đề được đặt ra, và vì thế, họ đề nghị những hình thức tổ chức Giáo hội có vẻ như đối nghịch nhau. Khi điều đó xảy ra, có lẽ giải đáp đúng cho những thách đố của việc loan báo Tin Mừng là ở trong việc vượt qua cả hai đề nghị, bằng cách tìm những con đường khác tốt hơn, có thể chưa hình dung ra. Xung đột được vượt qua ở một mức độ cao hơn, ở đó mỗi bên, vẫn luôn trung thành với chính mình, được sáp nhập với bên kia trong một thực tại mới. Tất cả được giải quyết “ở một bình diện cao hơn và bảo tồn những tiềm năng quý giá của cả hai bên đối cực” (142) Bằng không thì xung đột sẽ giam giữ chúng ta, “chúng ta mất tầm nhìn, chân trời của chúng ta bị thu nhỏ lại và chính thực tại bắt đầu tan rã” (143).

105. Chắc chắn điều đó không muốn nói rằng phải tương đối hoá vấn đề, trốn tránh hoặc cứ để chúng y như cũ. Những giải pháp đích thực không bao giờ đạt được khi thiếu sự táo bạo, khi tránh né những đòi hỏi cụ thể hay đổ lỗi cho người khác. Trái lại, lối thoát nằm ở chỗ “nước tràn bờ”, vượt lên trên biện chứng vốn giới hạn tầm nhìn, để có thể nhìn nhận một ơn ban lớn hơn của Thiên Chúa. Từ ơn ban mới được đón nhận với lòng can đảm và quảng đại này, từ ơn ban bất ngờ này sẽ nảy sinh một sáng tạo mới mẻ và to lớn hơn, chảy ra như từ một dòng suối tuôn tràn những giải đáp mà biện chứng không cho ta thấy. Khởi đầu, đức tin Kitô giáo được lan rộng đáng kể khi đi theo lý luận cho phép nó khởi đi từ một gốc gác Do Thái, du nhập vào những nền văn hoá Hy-La, rồi đạt được trên đường đi qua, những dạng thức khác biệt. Tương tự như thế, vào thời điểm lịch sử này, Amazon thách thức chúng ta vượt lên trên những viễn cảnh giới hạn, những giáp pháp từng phần vẫn còn bị giam giữ trong những dáng vẻ phiến diện của những vấn nạn lớn, để đi tìm những con đường hội nhập văn hoá rộng rãi hơn và dạn dĩ hơn.

Sống chung đại kết và liên tôn

106. Trong một Amazon đa tôn giáo, các tín hữu cần tìm ra những không gian để thảo luận và cùng nhau hành động vì công ích và thăng tiến những người nghèo nhất. Đây không phải là vấn đề thoả hiệp hoặc che giấu niềm tin của mình để có thể gặp gỡ những người khác có những suy nghĩ khác chúng ta. Người nào tin rằng Thánh Thần có thể hoạt động trong sự đa dạng, thì họ sẽ cố gắng để cho ánh sáng ấy làm cho họ thêm phong phú, nhưng họ đón nhận ánh sáng ấy với những xác tín và căn tính riêng của mình. Bởi vì, một người có căn tính càng sâu sắc, vững chắc và phong phú, thì người ấy càng muốn làm cho những người khác được phong phú bằng những đóng góp của riêng mình.

107. Người Công giáo chúng ta có một kho tàng trong Kinh Thánh mà những tôn giáo khác không có, dù đôi khi họ có thể thích thú khi đọc Kinh Thánh và ngay cả đánh giá cao một số phần của nội dung Kinh Thánh. Chúng ta thử làm tương tự đối với những bản văn thánh thiêng của các tôn giáo và các cộng đoàn tôn giáo khác, nơi đó chúng ta thấy “những huấn giới và giáo thuyết này […] vẫn thường mang theo một tia sáng nào đó của chính Chân lý đang chiếu soi tất cả mọi người” (144). Chúng ta cũng có một sự phong phú lớn lao trong bảy bí tích mà có những cộng đoàn Kitô giáo không chấp nhận trọn vẹn tất cả hoặc tương tự như vậy. Đồng thời chúng ta tin vững vàng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất của thế giới, chúng ta vun trồng lòng tôn sùng sâu xa đối với Mẹ của Chúa. Cho dù chúng ta biết điều đó không có trong tất cả các cộng đoàn Kitô giáo, chúng ta có bổn phận truyền thông cho người Amazon sự phong phú của tình yêu nồng nhiệt đối với Mẹ mà chúng ta là những người nắm giữ kho tàng. Thật vậy, tôi sẽ kết thúc Tông huấn này với những lời cầu xin Mẹ Maria.

108. Tất cả những điều đó không được làm chúng ta trở thành thù địch. Trong một tinh thần đối thoại chân thành, khả năng hiểu ý nghĩa những gì người khác nói và làm, sẽ tăng thêm, dù chúng ta không thể đón nhận như xác tín của mình. Như thế, chúng ta có thể trở nên thành thật, không che giấu những gì chúng ta tin, không ngừng đối thoại, tìm kiếm những điểm gặp nhau, và nhất là cùng hoạt động và tranh đấu để mưu cầu thiện ích cho Amazon. Sức mạnh của những gì hiệp nhất các Kitô hữu có một giá trị bao la. Đôi khi chúng ta chú ý nhiều đến điều chia rẽ chúng ta, nên chúng ta không trân trọng hay đề cao điều hiệp nhất chúng ta. Và điều hiệp nhất chúng ta chính là điều cho phép chúng ta ở trong thế giới mà không bị chính trần gian, sự trống rỗng tinh thần, thói tiện nghi ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân mang tính tiêu thụ và tự huỷ hoại nuốt trửng.

109. Tất cả chúng ta là Kitô hữu, chúng ta hiệp nhất trong đức tin vào Thiên Chúa là Cha, Đấng ban cho chúng ta sự sống và yêu chúng ta biết bao. Chúng ta hiệp nhất trong đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất, Ngài đã giải thoát chúng ta nhờ Máu thánh và cuộc Phục sinh vinh hiển của Ngài. Chúng ta hiệp nhất trong ước muốn được Lời Chúa dẫn bước chúng ta đi. Chúng ta hiệp nhất trong lửa của Thánh Thần thúc đẩy chúng ta thi hành sứ vụ. Chúng ta hiệp nhất trong điều răn mới Chúa Giêsu đã để lại, trong việc tìm kiếm nền văn minh tình thương, lòng say mê Nước Trời mà Chúa kêu gọi chúng ta xây dựng với Ngài. Chúng ta hiệp nhất trong cuộc chiến đấu cho hoà bình và công lý. Chúng ta hiệp nhất trong niềm xác tín rằng mọi sự không hoàn tất ở đời này, nhưng chúng ta được kêu gọi mừng lễ hội trên trời nơi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và nhìn nhận những gì chúng ta đã làm cho những ai đang đau khổ.

110. Tất cả những điều ấy hiệp nhất chúng ta. Làm sao không cùng nhau chiến đấu ? Làm sao không cùng nhau cầu nguyện và làm việc sát cánh bên nhau để bảo vệ những người nghèo ở Amazon, để bày tỏ Thánh nhan Chúa và để chăm sóc công trình tạo dựng của Ngài ?

KẾT LUẬN
NGƯỜI MẸ CỦA AMAZON

111. Sau khi đã chia sẻ vài ước mơ, tôi khuyến khích mọi người hãy bước vào những con đường cụ thể, để biến đổi thực tại Amazon và giải thoát vùng này khỏi những tệ nạn đang bủa vây. Giờ đây chúng ta hãy ngước nhìn lên Đức Maria. Người Mẹ mà Đức Kitô đã trối lại cho chúng ta, là người Mẹ duy nhất của mọi người, nhưng trong vùng Amazon lại biểu lộ theo nhiều cách khác nhau. Chúng ta biết rằng “người dân bản địa gặp gỡ Đức Kitô một cách sống động bằng nhiều con đường; nhưng con đường Maria đã góp phần lớn nhất cho cuộc gặp gỡ ấy”. (145) Đứng trước kỳ quan Amazon mà chúng ta ngày càng khám phá thêm, khi chuẩn bị cũng như khi tiến hành Thượng Hội đồng, tôi tin rằng tốt nhất là nên kết luận Tông huấn này bằng cách cầu xin với Đức Mẹ:

Lạy Mẹ sự sống,
Chúa Giêsu đã hình thành trong cung lòng Mẹ
Ngài là Chúa tể muôn loài.
Ngài đã biến đổi Mẹ bằng ánh sáng phục sinh của Ngài
và làm cho Mẹ thành nữ hoàng của muôn loài thụ tạo.
Vì thế, lạy Mẹ Maria, chúng con xin Mẹ
hãy ngự trị nơi cõi lòng thổn thức của Amazon.
Xin Mẹ hãy tỏ ra Mẹ là Mẹ của muôn loại thọ sinh,
nơi vẻ đẹp của những bông hoa, của những dòng sông
của dòng sông cả chảy ngang vùng đất này
và của tất cả những gì rung rinh trong các cánh rừng.
Xin Mẹ hãy thương mến bảo vệ vẻ đẹp lộng lẫy này.
Mẹ hãy xin Chúa Giêsu tuôn đổ tình yêu của Ngài
trên những người nam và người nữ đang cư ngụ nơi đây,
để họ biết trân quý và bảo vệ nơi này.
Xin Mẹ hãy hạ sinh Con Mẹ trong tâm hồn họ,
để Ngài chiếu sáng nơi Amazon,
nơi các dân tộc và các nền văn hoá của họ,
bằng ánh sáng của Lời, bằng tình yêu an ủi của Ngài,
bằng sứ điệp huynh đệ và công lý của Ngài.
Ước gì trong mỗi Thánh lễ
muôn điều kỳ diệu ấy cũng được dâng lên
để tôn vinh Chúa Cha.
Lạy Mẹ, xin nhìn đến những người nghèo của vùng Amazon,
bởi vì ngôi nhà của họ đang bị phá hủy
vì những lợi lộc nhỏ nhen.
Biết bao đau khổ và khốn khó
Biết bao ruồng bỏ và lạm dụng
nơi vùng đất được chúc phúc
và tràn đầy sức sống này!
Xin Mẹ hãy chạm đến sự nhạy cảm của các nhà cầm quyền
bởi vì, dù chúng con thấy rằng đã muộn,
Mẹ vẫn kêu gọi chúng con cứu lấy
những gì còn đang sống.
Mẹ có trái tim bị đâm thâu.
Mẹ chịu đau đớn nơi những đứa con bị ngược đãi
và nơi thiên nhiên bị thương tích,
xin Mẹ hãy cùng với Con của Mẹ,
thống trị Amazon.
Xin Mẹ hãy thống trị
để không còn ai thấy mình là chủ công trình của Thiên Chúa nữa.
Lạy Mẹ của sự sống,
chúng con tin tưởng nơi Mẹ,
xin đừng bỏ rơi chúng con
trong giờ phút tăm tối này.
Amen.

Làm tại Rôma, cạnh đền thờ Gioan Latêranô,
ngày 2 tháng 2, lễ Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, năm 2020,
năm thứ 7 triều Giáo hoàng của tôi.

PHANXICÔ

……………………………………..

PHỤ LỤC:

[1] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 49: AAS 107 (2015), tr. 866.

[2] Tài liệu làm việc, số 45.

[3] Ana Varela Tafur, “Timareo”, trong Lo que no veo en visions – Những gì tôi không thấy trong tầm nhìn, Lima (1992).

[4] Jorge Vega Márquez, “Amazonia solitária” – Amazon cô độc, trong Poesía obrera, Cobija-Pando-Bolivia 2009, tr. 39.

[5] Mạng lưới Giáo hội Toàn Amazon (REPAM), Braxin, Síntesis del aporte al Sínodo – Tổng hợp những đóng góp cho Thượng Hội Đồng, số 120: cf. Tài liệu làm việc, số 45.

[6] Bài nói chuyện với các bạn trẻ, São Paulo, Braxin (10/05/2007), số 2: Insegnamenti III, 1 (2007), tr. 808.

[7] Cf. Alberto C. Araújo, “Imaginario amazónico”, trong Amazonia real: amazoniareal.com.br (29/01/2014).

[8] Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, Thông điệp Populorum progressio – Phát triển các Dân tộc (26/03/1967), số 57: AAS 59 (1967), tr. 285.

[9] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn với Hàn lâm viện Giáo hoàng về Khoa học Xã hội (27/04/2001), số 4: AAS 93 (2001), 600.

[10] Cf. Tài liệu làm việc, số 41.

[11] Đại hội lần thứ V của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh và Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số 473.

[12] Ramón Iribertegui, Amazonas: El hombre y el caucho, xb: Đại diện Tông toà Puerto Ayacucho – Venezuela, Monografia, số 4, Caracas 1987, tr. 307tt.

[13] Cf. Amarílis Tupiassú, “Amazônia, das travessias lusitanas à literatura de até agora”, trong Estudos Avançados, q. 19, số 53, São Paulo, Braxin (tháng 01/tháng 04-2005): “Thực thế, sau khi kết thúc thời kỳ thuộc địa đầu tiên, Amazon vẫn là khu vực bị thống trị bởi sự tham lam thâm căn cố đế, nay với những luận điệu mới […] của các tổ chức “văn minh”, những người thậm chí không đủ tư cách để tạo ra và nhân rộng những bộ mặt mới của guồng máy hủy diệt cũ, nay lại cho chuyển qua một cái chết từ từ”.

[14] Các Giám mục Amazon vùng Braxin, Thư gửi Dân Chúa, Santarem – Braxin (06/07/2012).

[15] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 1998, số 3: AAS 90 (1998), tr. 150.

[16] Đại hội lần thứ III của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh và Vùng Caribê, Tài liệu Puebla (23/03/1979), số 6.

[17] Tài liệu làm việc, 6. Đức Giáo hoàng Phaolô III, với Đoản sắc Veritas ipsa (02/06/1537), đã lên án các văn bản phân biệt chủng tộc, nhìn nhận nhân phẩm của người bản xứ, dù họ là Kitô hữu hay không, công nhận quyền sở hữu của họ và cấm không được bắt họ làm nô lệ. Đức Thánh Cha khẳng định: “Họ là người như những người khác, […] tuyệt đối không thể bị tước đoạt tự do và quyền sở hữu của cải, kể cả những người không tin Đức Giêsu”. Giáo huấn của các Đức Giáo hoàng cũng quả quyết như thế: Grêgôriô XIV, Sắc chỉ Cum Sicuti (28/04/1591); Urbanô VIII, Sắc chỉ Commissum Nobis (22/04/1639); Bênêđictô XIV, Sắc chỉ Immensa Pastorum Principis, gửi các Giám mục Braxin (20/12/1741); Grêgôriô XVI, Đoản sắc In Supremo (03/12/1839); Lêô XIII, Epistola ai Vescovi del Brasile sulla schiavitù (05/05/1888); Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp gửi người bản địa của Châu Mỹ La tinh, Santo Domingo (12/10/1992), số 2: Insegnamenti 15, 2 (1992), tr. 341-347.

[18] Frederico Benício de Sousa Costa, Thư mục vụ (1909), xb: Imprenta del gobierno del Estado de Amazonas, Manaos 1994, tr. 83.

[19] Tài liệu làm việc, số 7.

[20] Diễn văn nhân dịp Cuộc Gặp gỡ lần thứ 11 của các Phong trào Bình dân trên Thế giới, Santa Cruz de la Sierra – Bolivia (9/7/2015): L’Osservatore Romano bản tiếng Pháp, 16/07/2015, tr. 16.

[21] Diễn văn trong Cuộc gặp gỡ Các Dân tộc vùng Amazon, Puerto Maldonado – Peru (19/01/2018): L’Osservatore Romano bản tiếng Pháp, 25/01/2018, tr. 10.

[22] Tài liệu làm việc, số 24.

[23] Yana Lucila Lema, Tamyahuan Shamakupani (Tôi đang sống với cơn mưa), 1, tại http://siwarmayu.com/es/yana-lucila-lema-6-poemas-de-tamyawan-shamukupani-con-la-lluvia-estoy-viviendo/.

[24] Hội đồng Giám mục Êcuađor, Hãy chăm sóc hành tinh của chúng ta (20/4/2012), số 3.

[25] Ibid., số 142: AAS 107 (2015), tr. 904-905.

[26] Ibid., số 82.

[27] Ibid., số 83.

[28] Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/12/2013), số 239: AAS 105 (2013), tr. 1116.

[29] Ibid., số 218: AAS 105 (2013), tr. 1110.

[30] Ibid.

[31] Cf. Tài liệu làm việc, số 57.

[32] Cf. Evaristo Eduardo de Miranda, Quando o Amazonas corria para o Pacífico, Petrópolis 2007, tr. 83-93.

[33] Juan Carlos Galeano, “Paisajes”, in Amazonia y otros poemas, Universidad Externado de Colombia, Bogotá 2011, tr. 31.

[34] Javier Yglesias, “Llamado”, in Revista peruana de literatura, số 6 (tháng Sáu 2007), tr. 31.

[35] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 144: AAS 107 (2015), tr. 905.

[36] Tông huấn hậu Thượng Hội đồng, Christus vivit – Chúa Kitô đang sống (25/03/2019), số 186.

[37] Ibid., số 200.

[38] Sứ điệp truyền hình cho cuộc Gặp gỡ Thế giới Giới trẻ Bản địa, Soloy-Panama (18/01/2019).

[39] Mario Vargas Llosa, Lời nói đầu viết cho quyển El Hablador, Madrid (08/10/ 2007).

[40] Tông huấn hậu Thượng Hội đồng, Christus vivit – Chúa Kitô đang sống (25/03/2019), số 195.

[41] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus – Bách chu niên (01/05/1991), số 50: AAS 83 (1991), tr. 856.

[42] Đại hội lần thứ V của các Giám mục châu Mỹ Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số 97.

[43] Diễn văn trong buổi gặp gỡ Các Dân tộc vùng Amazon, Puerto Maldonado, Peru (19/01/2018).

[44] Tài liệu làm việc, số 123, e.

[45] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 144: AAS 107 (2015), tr. 906.

[46] Cf. Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas in veritate – Bác ái trong chân lý (29/06/2009), số 51: AAS 101 (2009), tr. 687: “Đặc biệt trong thời đại chúng ta, thiên nhiên đã hội nhập vào sự năng động xã hội và văn hoá sâu xa đến độ không còn là dữ kiện độc lập nữa. Việc sa mạc hoá nhanh chóng và lâm vào cảnh khổ của nhiều vùng nông nghiệp là hậu quả của nghèo đói và chậm tiến của dân chúng sống nơi đó”.

[47] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2007, số 8: Insegnamenti II, 2 (2006), tr. 776.

[48] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), các số 16; 91; 117; 138; 240: AAS 107 (2015), tr. 854; 884; 894; 903; 941.

[49] Tài liệu Bolivia: informe país. Consulta pre-sinodal, 2019, tr. 36; Cf. Tài liệu làm việc, số 23.

[50] Tài liệu làm việc, số 26.

[51] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 146: AAS 107 (2015), tr. 906.

Bài này đã được xem 379 lần!

Pages ( 6 of 7 ): <1 ... 45 6 7>

BÌNH LUẬN

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]