[52] Tài liệu đóng góp cho Thượng hội đồng, của giáo phận San José del Guaviare và Tổng giáo phận Villavicencio và Granada (Colombia); Cf. Tài liệu làm việc, số 17.
[53] Euclides da Cunha, Los Sertones (Os Sertões), Buenos Aires 1946, tr. 65-66.
[54] Pablo Neruda, “Amazonas”, trong Canto General (1938), I. IV.
[55] REPAM, Doc. Eje de Fronteras. Chuẩn bị cho Thượng Hội đồng về Amazon, Tabatinga-Braxin (13/02/2019), tr. 3; Cf. Tài liệu làm việc, số 8.
[56] Amadeu Thiago de Mello, Amazonas, patria da agua.
[57] Vinicius de Moraes, Para vivir un gran amor, Buenos Aires (2013), tr. 166.
[58] Juan Carlos Galeano, “Los que creyeron”, trong Amazonia y otros poemas, Universidad Externado de Colombia, Bogotá (2011), tr. 44.
[59] Harald Sioli, A Amazônia, Petropolis (1985), tr. 60.
[60] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn gửi các tham dự viên Hội nghị Quốc tế về “Môi trường và Sức khỏe” (24/03/1997), số 2: Insegnamenti XX, 1 (1997), tr. 521.
[61] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 34: AAS 107 (2015), tr. 860.
[62] Cf. Ibid., số 28-31: AAS 107 (2015), tr. 858-859.
[63] Ibid., số 38: AAS 107 (2015), tr. 862.
[64] Cf. Đại hội lần thứ V của các Giám mục châu Mỹ Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số 86.
[65] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015)), số 38: AAS 107 (2015), tr. 862.
[66] Cf. Ibid. các số 144; 187: AAS 107 (2015), tr. 905-906; 921.
[67] Cf. Ibid., số 183: AAS 107 (2015), tr. 920.
[68] Ibid., số 53: AAS 107 (2015), tr. 868.
[69] Cf. Ibid., số 49: AAS 107 (2015), tr. 866.
[70] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục Đặc biệt về Amazon, số 8.
[71] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 56: AAS 107 (2015), tr. 869.
[72] Ibid., số 59: AAS 107 (2015), tr. 870.
[73] Ibid., số 33: AAS 107 (2015), tr. 860.
[74] Ibid., số 220: AAS 107 (2015), tr. 934.
[75] Ibid., số 215: AAS 107 (2015), tr. 932.
[76] Sui Yun, Cantos para el mendigo y el rey, Wiesbaden 2000.
[77] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 100: AAS 107 (2015), tr. 887.
[78] Ibid., số 204: AAS 107 (2015), tr. 928.
[79] Cf. Các Tài liệu Santarem (1972) và Manaos (1997): trong Hội đồng Giám mục Braxin, Desafío missionário. Documentos da Igreja na Amazônia, Braxin 2014, tr. 9-28; 67-84.
[80] Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 220: AAS 105 (2013), tr. 1110.
[81] Ibid., số 164: AAS 105 (2013), tr. 1088-1089.
[82] Ibid., số 165: AAS 105 (2013), tr. 1089.
[83] Ibid., số 161: AAS 105 (2013), tr. 1087.
[84] Công đồng Vaticanô II cũng nhận định như thế trong Hiến chế Gaudium et spes, số 44: “Giáo Hội ngay từ lúc khởi đầu lịch sử của mình, đã ra sức diễn tả sứ điệp của Chúa Kitô bằng những ý niệm và ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Hơn nữa, Giáo Hội còn cố gắng dùng sự khôn ngoan của các triết gia để làm sáng tỏ sứ điệp ấy.Mục đích của Giáo Hội là làm cho Tin Mừng, trong mức độ có thể, được thích nghi với tầm hiểu biết của mọi người cũng như với những đòi hỏi của các nhà hiền triết. Cách thích nghi việc rao giảng lời mặc khải như vậy vẫn luôn là nguyên tắc cho mọi công trình Tin Mừng hoá, bởi vì có như vậy mới khơi dậy trong mọi quốc gia khả năng diễn tả sứ điệp của Chúa Kitô theo lối riêng của mình, đồng thời mới cổ vũ được sự trao đổi linh động giữa Giáo Hội và những nền văn hoá khác nhau của các dân tộc”.
[85] Thư gởi Dân Chúa đang lữ hành tại Đức, (29/06/2019), số 9.
[86] Cf. Thánh Vincenzo di Lerins, Commonitorium primum, 23: PL 50, tr. 668: “Ut annis scilicet consolidetur, dilatetur tempore, sublimetur aetate”.
[87] Thư gởi Dân Chúa đang lữ hành tại Đức, (29/06/2019), số 9. Tham khảo câu được cho là của Gustav Mahler: “Truyền thống là bảo đảm cho tương lai chứ không phải gìn giữ tro tàn”.
[88] Diễn văn với các giáo sư đại học và các nhà văn hoá, Coimbra, (15/05/1982), số 5: Insegnamenti V, 2 (1982), tr. 1702-1703.
[89] Sứ điệp gửi thổ dân Châu Mỹ, Santo Domingo (12/10/1992), số 6: Insegnamenti, 15/2 (1992), tr. 346; cf. Diễn văn với các tham dự viên Hội Nghị toàn quốc về Phong trào dấn thân trong lãnh vực văn hoá của Giáo Hội (16/01/1982), số 2: Insegnamenti, 5/1 (1982), tr. 131.
[90] Tông huấn Vita consecrata – Đời sống thánh hiến (25/03/1996), số 98: AAS 88 (1996), tr. 474-475.
[91] Số 115: AAS 105 (2013), tr. 1068.
[92] Ibid., số 116: AAS 105 (2013), tr. 1068.
[93] Ibid.
[94] Ibid., số 129: AAS 105 (2013), tr. 1074.
[95] Ibid., số 116: AAS 105 (2013), tr. 1068.
[96] Ibid., số 117: AAS 105 (2013), tr. 1069.
[97] Ibid.
[98] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn dịp Hội Nghị khoáng đại của Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn hoá (17/01/1987), số 5: Insegnamenti X, 1 (1987), tr. 125.
[99] Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 129: AAS 105 (2013), tr. 1074.
[100] Đại hội lần thứ IV của các Giám mục châu Mỹ Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Santo Domingo (12-28/10/1992), số 17.
[101] Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 198: AAS 105 (2013), tr. 1103.
[102] Cf. Vittorio Messori – Joseph Ratzinger, Informe sobrae la fe – Bản tường trình về đức tin, nxb. BAC, Madrid (2015), tr. 209-210.
[103] Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 198: AAS 105 (2013), tr. 1103.
[104] Pedro Casaldáliga, “Carta de navegar (Por el Tocantins amazónico)”, trong El tiempo y la espera, Santander (1986).
[105] Thánh Tôma Aquinô giải thích như sau: “Thiên Chúa ở trong mọi sự bằng ba cách thế: thứ nhất, Ngài hiện diện chung trong mọi sự, nhờ bản chất, hiện diện và quyền năng; thứ hai, Ngài hiện diện trong các thánh nhờ ân sủng; thứ ba, hiện diện trong Chúa Kitô nhờ việc kết hợp cá vị với Người” (Ad Colossenses, II, 2).
[106] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 235: AAS 107 (2015), tr. 939.
[107] Đại hội lần thứ III của các Giám mục châu Mỹ Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Puebla (23/03/1979), số 196.
[108] Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 178: AAS 105 (2013), tr. 1094.
[109] Cđ. Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội Lumen gentium, số 11; cf. Tông huấn Gaudete et exsultate – Hãy Vui mừng hoan hỉ (19/03/2018), số 10-11.
[110] Các Hạt Đại diện Tông toà của Peru ở Amazon, “Hội nghị lần thứ hai của các Giám mục miền về Rừng”, San Ramón – Peru (05/10/1973); trong Éxodo de la Iglesia en la Amazonia. Documentos pastorales de la Iglesia en la Amazonia peruana, Iquitos (1976), tr. 121.
[111] Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 123: AAS 105 (2013), tr. 1071.
[112] Cf. Tông huấn Gaudete et exsultate – Hãy Vui mừng hoan hỉ (19/03/2018), số 126-127.
[113] Ibid., số 32.
[114] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 235: AAS 107 (2015), tr. 939.
[115] Ibid.
[116] Ibid., số 236: AAS (2015), tr. 940.
[117] Ibid.
[118] Ibid., số 235: AAS 107 (2015), tr. 939.
[119] Cf. Cđ Vaticanô II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concillium, các số 37-40; 65; 77; 81.
[120] Trong Thượng Hội đồng, có đề nghị triển khai một “Nghi lễ Amazon”.
[121] Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 237: AAS 107 (2015), tr. 940.
[122] Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Amoris laetitia – Niềm vui của tình yêu (19/03/2016), số 49: AAS 108 (2016), tr. 331; cf. Ibid., số 305: AAS 108 (2016), tr. 436-437.
[123] Cf. Ibid., số 296; 308: AAS 108 (2016), tr. 430-431; 438.
[124] Đại hội lần thứ V của các Giám mục châu Mỹ Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số 100, e.
[125] Cf. Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Sacerdotium ministeriale gởi các Giám mục Giáo hội Công giáo về một vài vấn đề liên hệ đến thừa tác viên Thánh Thể (06/08/1983): AAS 75 (1983) tr. 1001-1009.
[126] Tông thư Mulieris dignitatem (15/08/1988), số 27: AAS 80 (1988), tr. 1718.
[127] Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae (Tổng luận Thần học), III, q.8, a.1, trả lời.
[128] Cf. Cđ Vaticanô II, Sắc lệnh về sứ vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, số 5; Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II,Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17/04/2003), số 22: AAS 95 (2003), tr. 448.
[129] Chỉ có linh mục mới được ban Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, vì Bí tích này liên kết chặt chẽ với ơn tha tội: “Nếu người ấy phạm tội, thì được tha tội” (Gc 5,15).
[130] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1396; Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17/04/2003, số 26: AAS 95 (2003), tr. 451; Cf. Henri de Lubac, Suy niệm về Giáo hội, Paris (1968), tr.101.
[131] Cđ. Vaticanô II, Sắc lệnh về sứ vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, số 6.
[132] Tôi lưu ý về sự kiện là trong một số nước ở hạ lưu Amazon, có nhiều thừa sai cho châu Âu hoặc cho Hoa Kỳ hơn là để giúp đỡ chính những Địa hạt của họ ở Amazon.
[133] Trong Thượng Hội đồng, người ta cũng nói đến vấn đề thiếu các chủng viện đào tạo linh mục cho những người bản địa.
[134] Cf. Cđ. Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo hội Lumen gentium, số 3.
[135] Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, Bài giảng lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa, (17/06/1965): Insegnamenti III (1965), tr.358.
[136] Có thể, vì thiếu linh mục, Giám mục ủy thác “cho một phó tế hoặc cho một người khác không có chức linh mục, hoặc còn cho một cộng đoàn tham gia vào việc thi hành trách nhiệm mục một giáo xứ“ (Giáo luật, khoản 517 §2).
[137] Đại hội lần thứ V của các Giám mục châu Mỹ Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecidia (29/6/2007), số 178.
[138] Ibid., số 475.
[139] Tài liệu làm việc, số 65.
[140] Ibid., số 63.
[141] Ibid., số 129 d, 2.
[142] Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/09/2013), số 228: AAS 105 (2013), tr. 1113.
[143] Ibid., số 226: AAS 105(2013), tr. 1112.
[144] Cđ. Vaticanô II, Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, số 2.
[145] CELAM, Hội thảo chuyên đề lần thứ III Châu Mỹ Latinh về Thần học Ấn Độ, Thành phố Guatemala (23-27/10/2006).
Bản dịch của Văn phòng HĐGMVN
Bài này đã được xem 369 lần!