22. Để nhận biết lời Chúa muốn nói với chúng ta qua một trong các vị thánh của Người, chúng ta không cần bận tâm đến các chi tiết, vì ở đó chúng ta cũng có thể gặp những lỗi lầm và sa ngã. Không phải mọi điều một vị thánh nói đều hoàn toàn trung thành với Tin Mừng; không phải mọi việc họ làm đều chân thực hay hoàn hảo. Điều chúng ta cần chiêm ngắm là toàn thể đời sống của các ngài, toàn thể hành trình tăng trưởng trong sự thánh thiện của các ngài, diện mạo Đức Giêsu Kitô được phản chiếu phần nào khi ta hiểu thấu được trọn ý nghĩa của các ngài xét như một con người.26
23. Đó là một lời nhắc nhớ quyết liệt đối với tất cả chúng ta. Cả bạn nữa, bạn cũng cần phải nhìn toàn thể cuộc đời mình như một sứ mạng. Hãy cố gắng thực hành như thế bằng cách lắng nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện và nhận biết các dấu chỉ mà Ngài ban cho bạn. Hãy luôn xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho biết Đức Giêsu mong đợi gì ở bạn, trong mọi lúc của cuộc sống bạn và trong mọi quyết định bạn phải thực hiện, để phân định vị trí của điều ấy trong sứ mạng bạn đã lãnh nhận. Hãy để Chúa Thánh Thần luyện đúc bạn nên mầu nhiệm riêng biệt, có thể phản chiếu Đức Giêsu Kitô trong thế giới hôm nay.
24. Ước gì bạn có thể nhận ra ý nghĩa của lời ấy, nghĩa là sứ điệp của Đức Giêsu mà Thiên Chúa muốn nói với thế giới qua cuộc đời bạn. Hãy để mình được biến đổi. Hãy để Chúa Thánh Thần đổi mới con người bạn, nhờ đó điều tốt đẹp này sẽ được thực hiện, và sứ mạng cao quý của bạn sẽ không gặp thất bại. Thiên Chúa sẽ đưa sứ mạng này đến hoàn thành bất chấp những lỗi lầm và thiếu sót của bạn, miễn là bạn không từ bỏ con đường yêu thương, nhưng vẫn luôn mở lòng ra với ân sủng siêu nhiên của Ngài, là ân sủng có sức thanh lọc và chiếu sáng.
HOẠT ĐỘNG THÁNH HÓA
25. Cũng như bạn không thể hiểu Đức Kitô nếu đặt bối cảnh bên ngoài vương quốc Người mang đến, cũng thế, sứ mạng riêng của bạn không thể tách rời khỏi việc xây dựng vương quốc ấy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài” (Mt 6,33). Việc bạn gắn bó chặt chẽ với Đức Kitô và ý muốn của Người đòi hỏi bạn phải dấn thân cùng Người xây dựng Nước của tình yêu, công lý và hòa bình phổ quát ấy. Chính Đức Kitô muốn thực hiện kinh nghiệm này với bạn, trong mọi nỗ lực và hy sinh gắn liền với việc ấy và cả trong mọi niềm vui và sự phong phú mà nó đem lại. Bạn không thể lớn lên trong sự thánh thiện mà không dấn thân, cả thân xác lẫn linh hồn, cống hiến hết mình cho công cuộc này.
26. Quả là không lành mạnh thái độ thích yên lặng vì muốn tránh gặp gỡ người khác, muốn bình an và yên tĩnh vì trốn tránh hoạt động, tìm cầu nguyện mà không quan tâm đến phục vụ. Mọi sự đều có thể được chấp nhận và hội nhập vào cuộc sống của chúng ta trong thế giới này, và trở nên một phần của nẻo đường nên thánh. Chúng ta được mời gọi sống chiêm niệm ngay giữa lòng hoạt động và nên thánh bằng cách thi hành sứ mạng riêng của mình một cách có trách nhiệm và quảng đại.
27. Phải chăng Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta thi hành một sứ mạng, và rồi lại yêu cầu ta từ bỏ sứ mạng ấy, hoặc ta không dấn thân tận tình cho sứ mạng ấy, để giữ sự bình an nội tâm của mình? Nhưng có những lúc chúng ta bị cám dỗ hạ thấp sự dấn thân trong mục vụ hoặc trong thế giới xuống hàng thứ yếu, như thể đó là “những trò tiêu khiển” dọc nẻo đường nên thánh và bình an nội tâm. Chúng ta có thể quên rằng “không phải đời sống có một sứ mạng, nhưng đời sống là một sứ mạng”.27
28. Thật rõ ràng, bất cứ điều gì được thực hiện trong bất an, kiêu căng hoặc vì muốn gây ấn tượng cho người khác thì sẽ không dẫn đến sự thánh thiện. Thách đố của chúng ta là thể hiện sự dấn thân của mình theo cách thế sao cho những cố gắng của chúng ta mang ý nghĩa Tin Mừng và giúp chúng ta gắn bó ngày càng mật thiết hơn với Đức Giêsu Kitô. Chẳng hạn, chúng ta thường nói về linh đạo của giáo lý viên, linh đạo của linh mục giáo phận, linh đạo của người lao động. Cũng vì lý do ấy, trong Tông huấn Evangelii Gaudium tôi đã kết luận bằng cách nói về một linh đạo sứ mạng, trong Laudato Si’ tôi nói về linh đạo môi sinh, và trong Amoris Laetitia tôi nói về linh đạo đời sống gia đình.
29. Điều đó không có nghĩa là xem nhẹ những khoảnh khắc yên tĩnh, cô tịch và thinh lặng trước Thiên Chúa mà hoàn toàn ngược lại. Những đồ dùng công nghệ luôn được cải tiến, sức cuốn hút của du lịch, những dãy hàng tiêu dùng bất tận nhiều khi không còn chừa chỗ cho người ta nghe tiếng Chúa. Chúng ta bị tràn ngập bởi những lời nói, những thú vui bên ngoài và những tiếng ồn ào ngày càng gia tăng. Ngự trị ở đó không phải niềm vui, nhưng là sự bất mãn của những con người mà cuộc sống của họ đã đánh mất ý nghĩa. Làm sao chúng ta lại không thể nhận ra nhu cầu cần phải dừng lối sống cạnh tranh náo nhiệt này và tìm lại không gian riêng tư cần thiết để có thể tâm sự chân tình với Thiên Chúa? Làm được như thế đôi khi gặp nhiều gay go nhưng luôn luôn thu được ích lợi. Có lúc nào đó, chúng ta sẽ phải đối diện với sự thật về chính con người mình và để Chúa bước vào. Điều này chỉ có thể xảy ra khi “chúng ta ý thức mình đang sa vào vực thẳm của một cám dỗ khủng khiếp, hoặc có cảm giác choáng váng vì đang đứng bên bờ vực thẳm, bị một cám dỗ rất nguy kịch, hoặc cảm thấy mình hoàn toàn đơn độc và bị bỏ rơi”.28 Trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta tìm thấy những động lực lớn nhất thúc đẩy chúng ta sống đến cùng các nhiệm vụ của mình.
30. Những trò tiêu khiển, vốn tràn ngập trong thế giới ngày nay, còn khiến chúng ta có xu hướng tuyệt đối hóa thời gian rảnh rỗi của mình, trong đó chúng ta có thể sử dụng vô độ các thiết bị giải trí hoặc cung ứng những thú vui phù phiếm.29 Hậu quả là chúng ta có thể trở nên chán ngán sứ vụ của mình, dấn thân uể oải, tinh thần phục vụ quảng đại và sẵn sàng của chúng ta bắt đầu suy giảm. Điều này làm biến chất kinh nghiệm thiêng liêng của chúng ta. Liệu sự nhiệt thành thiêng liêng có song hành với sự lười biếng uể oải trong việc loan báo Tin Mừng hay trong việc phục vụ tha nhân không?
31. Chúng ta cần có một tinh thần thánh thiện có thể thấm nhập cả sự cô tịch lẫn việc phục vụ của mình, thấm vào cuộc sống riêng tư lẫn hoạt động Loan báo Tin Mừng của chúng ta, để mỗi giây phút có thể là một biểu hiện của tình yêu tự hiến dưới ánh mắt Chúa. Bằng cách này, mỗi giây phút của đời ta có thể là một bước tiến trên con đường nên thánh.
SỐNG ĐỘNG HƠN, NHÂN BẢN HƠN
32. Bạn đừng sợ nên thánh. Sự thánh thiện sẽ không tước đi năng lực, sức sống hay niềm vui của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành con người mà Chúa Cha đã nhắm đến khi tạo dựng nên bạn, và bạn sẽ trung thành với bản ngã sâu xa nhất của mình. Việc phụ thuộc vào Thiên Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ và giúp ta nhận ra phẩm giá cao quý của mình. Chúng ta thấy điều này nơi Thánh Josephine Bakhita: “Bị bắt cóc và bị bán làm nô lệ lúc còn bé khi mới lên bảy. Thánh nữ đã chịu đau khổ rất nhiều trong tay các chủ nhân độc ác. Nhưng thánh nữ đã hiểu được sự thật thâm sâu này, là Thiên Chúa, chứ không phải phàm nhân, mới là Chủ Nhân đích thật của mọi người, của mọi sự sống con người. Kinh nghiệm này đã trở thành một nguồn khôn ngoan tuyệt vời cho người con gái khiêm hạ này của Phi Châu”.30
33. Theo mức độ mà mỗi Kitô hữu lớn lên trong sự thánh thiện, họ sẽ mang lại phúc lộc nhiều hơn cho thế giới. Các giám mục miền Tây Phi đã dạy chúng ta rằng “trong tinh thần Tân Phúc-Âm-hóa, chúng ta được mời gọi để cho mình được Phúc-Âm-hóa và Phúc-Âm-hóa người khác qua việc cổ võ tất cả những người đã lãnh nhận phép Rửa để anh chị em đảm nhận trách nhiệm của mình như là muối đất và ánh sáng cho thế gian, ở bất cứ nơi nào anh chị em hiện diện”.31
34. Bạn đừng sợ hướng tầm nhìn cao hơn, để cho mình được Thiên Chúa yêu thương và giải thoát. Đừng sợ để Chúa Thánh Thần hướng dẫn bạn. Sự thánh thiện không làm bạn kém nhân bản, vì đó là cuộc gặp gỡ giữa sự yếu đuối của bạn và quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Vì theo lời của Léon Bloy, suy cho cùng, “nỗi buồn thảm duy nhất của đời người là không nên thánh”.32
CHƯƠNG II – HAI KẺ THÙ TINH VI CỦA SỰ THÁNH THIỆN
35. Ở đây, tôi muốn lưu ý hai hình thức thánh thiện sai lệch có thể làm chúng ta lạc lối: thuyết Ngộ đạo (gnosticismo) và thuyết Pêlagiô (pelagianesimo). Đây là hai lạc thuyết đã có từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhưng vẫn tiếp tục có mặt cách đáng ngại trong thời đại chúng ta. Cả trong thời đại chúng ta, nhiều Kitô hữu có lẽ không ý thức đã để mình bị lôi cuốn bởi những ý tưởng lừa dối này. Chúng phản ảnh một thứ nội tại thuyết quy nhân (immanentismo antropocentrico), được ngụy trang như một chân lý Công giáo.33 Chúng ta cùng xem xét hai hình thức bảo đảm mang tính giáo thuyết hay kỷ luật này, vốn làm nổi lên “một tầng lớp ưu tú tự yêu và độc đoán (elitarismo narcisista e autoritario), theo đó, thay vì loan báo Tin Mừng thì người ta lại phân tích và xếp loại những người khác, và thay vì mở rộng cửa chân sủng người ta lại tốn hao sức lực cho việc thẩm tra. Trong cả hai trường hợp, người ta không thật sự quan tâm đến Đức Kitô Giêsu hay tha nhân”.34
THUYẾT NGỘ ĐẠO ĐƯƠNG ĐẠI
36. Ngộ đạo thuyết giả định “một đức tin hoàn toàn chủ quan, chỉ bận tâm đến một kinh nghiệm nào đó hoặc một tập hợp các lập luận và tri thức được cho là có khả năng đem lại an ủi và soi sáng, nhưng rốt cuộc chỉ giam hãm con người trong nội tại những lý lẽ hay tình cảm của mình mà thôi”.35
Một trí năng không có Thiên Chúa và không có xác thể
37. Tạ ơn Chúa, xuyên suốt lịch sử của Hội Thánh, ta luôn thấy rất rõ ràng là sự hoàn thiện của một con người được đo lường qua mức độ họ sống đức ái, chứ không phải qua những thông tin hoặc tri thức họ có thể có được. “Những người theo ngộ đạo thuyết” không hiểu điều này, bởi vì họ đánh giá tha nhân dựa trên năng lực thấu hiểu chiều sâu của một số đạo lý nào đó. Họ quan niệm trí năng tách biệt khỏi thể xác, và vì thế họ không thể thấu cảm được thân xác đau khổ của Đức Kitô nơi tha nhân, họ như khép kín mình lại trong một từ điển bách khoa về những khái niệm trừu tượng. Rốt cuộc, vì tách thể xác ra khỏi mầu nhiệm, họ nghiêng chiều về “một Thiên Chúa mà không có Đức Kitô, một Đức Kitô không có Hội Thánh, một Hội Thánh không có dân chúng”.36
38. Hẳn đây là một quan điểm hời hợt hư ảo: ở bề mặt xem ra có nhiều chuyển động, nhưng ở bề sâu tinh thần thì bất động và vô cảm. Tuy nhiên, Ngộ đạo thuyết vẫn có một sức hấp dẫn lừa phỉnh đối với một số người, vì hình thức tiếp cận của nó thì chặt chẽ và được cho là tinh tuyền, và tỏ ra có thể đạt đến một sự hài hòa nào đó hoặc một trật tự nào đó bao trùm mọi sự.
39. Nhưng chúng ta phải thận trọng. Tôi không có ý ám chỉ thuyết duy lý vốn thù nghịch với đức tin Kitô giáo. Quan điểm trên đây có thể tồn tại trong Hội Thánh, cả nơi những giáo dân tại các giáo xứ lẫn nơi những người giảng dạy triết học và thần học tại các trung tâm đào tạo. Những người theo khuynh hướng ngộ đạo thuyết nghĩ rằng những giải thích của họ có thể giúp hiểu thấu trọn vẹn toàn bộ đức tin và Tin Mừng. Họ tuyệt đối hóa các lý thuyết của họ và bắt buộc người khác phải chấp nhận lý lẽ của họ. Việc dùng lý trí cách lành mạnh và khiêm tốn nhằm để suy tư về giáo huấn thần học và luân lý của Tin Mừng là một chuyện, còn giản lược giáo huấn của Đức Giêsu chỉ còn là một thứ lý lẽ lạnh lùng và khắc nghiệt nhằm tìm cách thống trị mọi sự là một chuyện khác.37
Một học thuyết không mầu nhiệm
40. Ngộ đạo thuyết là một trong những ý thức hệ tệ hại nhất, vì khi đề cao quá mức tri thức hoặc một kinh nghiệm nhất định, thuyết này xem cái nhìn của mình về thực tại là hoàn hảo. Vì thế, có lẽ không ý thức về điều đó, ý thức hệ này tự nuôi dưỡng chính mình và càng trở thành thiển cận hơn. Nó có thể trở nên hết sức lầm lạc khi tự nguỵ trang thành một linh đạo xuất thể. Vì Ngộ đạo thuyết, “do tự bản chất muốn làm chủ mầu nhiệm”,38 dù là mầu nhiệm Thiên Chúa và ân sủng Ngài, hay mầu nhiệm đời sống của người khác.
41. Khi một ai đó có câu trả lời cho mọi vấn đề, đó là dấu hiệu họ không đi theo con đường đúng đắn. Họ có thể là tiên tri giả, sử dụng tôn giáo cho những mục đích riêng, nhằm phục vụ cho những lý thuyết tâm lý và trí thức của riêng mình. Thiên Chúa siêu việt vô cùng và Ngài luôn bất ngờ đối với chúng ta, chúng ta không phải là người quyết định trong hoàn cảnh lịch sử nào ta sẽ gặp gỡ Ngài. Bởi lẽ thời gian và nơi chốn chính xác của cuộc gặp gỡ này không tùy thuộc chúng ta. Ai muốn mọi sự phải trở nên rõ ràng và chắc chắn, người đó có tham vọng điều khiển sự siêu việt của Thiên Chúa.
42. Chúng ta cũng không thể tham vọng đòi xác định nơi nào không có Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa hiện diện cách mầu nhiệm trong đời sống của mỗi người theo cách thức Ngài muốn, và chúng ta không thể chối bỏ điều này bởi những xác quyết giả định của chúng ta. Ngay cả khi đời sống của một người nào đó có vẻ hoàn toàn hư hỏng, ngay cả khi chúng ta nhìn thấy đời sống ấy bị hủy hoại bởi những thói xấu hay nghiện ngập, Thiên Chúa vẫn hiện diện ở đó. Nếu chúng ta để cho mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần hơn là bởi những lý lẽ của mình, chúng ta có thể và phải cố tìm kiếm Chúa trong mỗi cuộc đời con người. Đây là một phần của mầu nhiệm mà suy nghĩ của người theo ngộ đạo thuyết không thể nào chấp nhận, vì mầu nhiệm ấy vượt xa tầm kiểm soát của suy lý này.
Những giới hạn của lý trí
43. Chúng ta không dễ dàng hiểu thấu sự thật đã lãnh nhận từ Chúa, và chúng ta càng gặp nhiều khó khăn hơn khi muốn diễn đạt sự thật này. Vì thế chúng ta không thể dám chắc rằng cách mình hiểu sự thật lại cho mình cái quyền giám sát chặt chẽ trên đời sống của người khác. Tôi muốn lưu ý rằng trong lòng Giáo Hội vẫn tồn tại cách hợp pháp những cách giải thích khác nhau về nhiều khía cạnh của giáo lý và đời sống Kitô hữu, và trong sự đa dạng đó, chúng “giúp giải thích rõ ràng hơn kho tàng phong phú của Lời Chúa”. Quả thực, “đối với những người ước ao có một hệ thống đạo lý đồng nhất buộc mọi người tuân thủ và không chừa chỗ nào cho những sắc thái dị biệt, thì điều đó xem ra không nên có và có thể dẫn đến tình trạng hỗn độn”.39 Quả vậy, một vài trào lưu ngộ đạo đã xem thường tính đơn sơ thực tiễn của Tin Mừng và đã tìm cách thay thế vị Thiên Chúa Ba Ngôi và nhập thể bằng Duy Nhất Tính tối thượng, trong đó sự đa dạng phong phú của lịch sử biến mất.
44. Thực ra, đạo lý, hay nói đúng hơn, cách ta hiểu và diễn đạt đạo lý, “không phải là một hệ thống đóng kín, thiếu khả năng năng động có thể đặt ra những vấn đề, những nghi vấn, những câu hỏi… Những vấn đề của dân chúng, những đau khổ, những tranh đấu, những ước mơ, những thử thách và những lo âu của họ, tất cả đều có giá trị thông diễn (ermeneutico) mà chúng ta không thể xem nhẹ nếu coi trọng nguyên lý nhập thể. Những câu hỏi của họ giúp chúng ta tự chất vấn mình, và những chất vấn của họ chất vấn chúng ta”.40
45. Một sự lầm lẫn nguy hiểm thường nảy sinh. Chúng ta có thể nghĩ rằng vì mình biết một điều gì đó, hoặc có thể giải thích điều ấy bằng những lý lẽ nào đó, thì chúng ta đã nên thánh thiện, hoàn hảo và tốt hơn “đám đông dốt nát” kia. Thánh Gioan Phaolô II đã cảnh báo những người được học cao hiểu rộng trong Hội Thánh về cơn cám dỗ “cách nào đó cảm thấy mình vượt trội hơn những tín hữu khác”.41 Thực ra, khi chúng ta nghĩ mình hiểu biết điều gì, thì sự hiểu biết đó phải luôn là động lực giúp chúng ta đáp lại tình yêu Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn. Thật vậy, “người ta học để sống: thần học và sự thánh thiện không thể tách rời nhau”.42
46. Khi Thánh Phanxicô Assisi nhận thấy một số học trò của ngài dấn thân vào việc giảng dạy, ngài muốn họ tránh xa cám dỗ của thuyết Ngộ đạo. Ngài đã viết cho Thánh Antôn Pađôva: “Tôi vui lòng về việc anh dạy thần học cho các anh em, miễn là anh đừng dập tắt tinh thần cầu nguyện và đạo đức trong khi nghiên cứu ngành học này”.43 Thánh Phanxicô đã nhận ra cám dỗ biến kinh nghiệm Kitô giáo thành một hệ thống thao luyện trí thức, rốt cuộc sẽ làm chúng ta xa rời sự tươi mát của Tin Mừng. Mặt khác, Thánh Bônaventura đã lưu ý rằng sự khôn ngoan Kitô giáo đích thật chẳng bao giờ có thể bị tách biệt khỏi lòng thương xót đối với người thân cận: “Sự khôn ngoan lớn nhất có thể tùy thuộc ở việc phân phối cách hiệu quả những gì ta có, những gì đã được trao ban chính là để hiến dâng. Cũng như lòng thương xót là bạn đồng hành của khôn ngoan, lòng tham lam là kẻ thù của khôn ngoan”.44 “Có những hoạt động, khi được kết hợp với chiêm niệm, chẳng những không gây cản trở cho việc chiêm niệm, mà còn tạo thuận lợi hơn cho việc chiêm niệm, chẳng hạn như những công việc của lòng thương xót và sùng mộ”.45
Bài này đã được xem 608 lần!