TÔNG HUẤN HÃY VUI MỪNG HOAN HỈ – GAUDETE ET EXSULTATE

THUYẾT PÊLAGIÔ CỦA NGÀY NAY

47. Ngộ đạo thuyết đã mở đường cho một lạc thuyết khác, nay cũng đang tồn tại trong thời đại chúng ta. Theo dòng thời gian, nhiều người đã bắt đầu nhận ra không phải kiến thức làm cho chúng ta nên tốt hơn hoặc biến ta thành những vị thánh, nhưng là phẩm hạnh đời sống của bản thân. Tuy vậy, điều này đã bị biến chất cách tinh vi, dẫn ta trở lại với những sai lầm cổ xưa của ngộ đạo thuyết, và như thế những sai lầm ấy chỉ đơn thuần được biến dạng, mà chưa được loại bỏ.

48. Năng lực mà những người ngộ đạo đã gán ghép cho trí tuệ, giờ đây những người khác lại bắt đầu gán ghép cho ý chí con người, cho những cố gắng cá nhân. Thế là xuất hiện những người theo thuyết Pêlagiô và bán-Pêlagiô. Giờ đây không phải trí tuệ chiếm lấy vị trí của mầu nhiệm và ân sủng, nhưng là ý chí con người. Họ đã quên rằng “mọi sự không phải do ý muốn hay cố gắng chạy vạy của người   ta, nhưng do Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót” (Rm 9,16) và “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (x. 1 Ga 4,19).

Một ý chí thiếu khiêm nhường

49. Những người thuận theo tâm thức Pêlagiô và bán-Pêlagiô, dù nồng nhiệt nói đến ân sủng của Thiên Chúa, “nhưng cuối cùng chỉ tin vào năng lực của bản thân và coi mình hơn những người khác, bởi vì họ chu toàn một số quy luật hoặc kiên định trung thành với một lối sống Công giáo nào đó”.46 Khi một số trong họ nói với người yếu đuối rằng mọi sự đều có thể đạt được nhờ ơn Chúa, thì trong thâm tâm họ có xu hướng nghĩ mọi sự đều có thể đạt được nhờ ý chí con người, như thể ý chí ấy là một thứ gì đó tinh tuyền, hoàn hảo, toàn năng, và ân sủng chỉ đến để bổ sung thêm mà thôi. Họ không muốn nhìn nhận rằng “không phải ai cũng có thể làm được mọi sự”,47 rằng trong cuộc đời này những yếu đuối của con người không được chữa lành hoàn toàn và dứt khoát bởi ân sủng.48 Trong mọi trường hợp, như Thánh Augustinô đã dạy, Thiên Chúa yêu cầu bạn hãy làm điều bạn có thể và hãy cầu xin điều bạn không thể,49 hoặc nói với Ngài cách khiêm tốn: “Xin hãy ban điều Chúa truyền dạy và xin hãy truyền dạy điều Chúa muốn”.50

50. Sau cùng, nếu không chân thành và đau đớn nhìn nhận những giới hạn của bản thân trong cầu nguyện, thì điều đó sẽ không cho phép ân sủng hoạt động hữu hiệu trong chúng ta, vì không còn chỗ cho ân sủng làm trổ sinh những thiện hảo tiềm ẩn vốn gắn liền với một tiến trình trưởng thành chân thực.51 Thật ra, vì xây dựng trên tự nhiên, ân sủng không biến chúng ta thành siêu nhân ngay tức khắc. Lối suy nghĩ này cho thấy người ta quá tin tưởng vào những khả năng của mình. Như thế, ẩn bên dưới sự chính thống của mình, những thái độ của chúng ta có lẽ không tương hợp với những gì mình khẳng định về sự cần thiết của ân sủng, và trong thực tế, rốt cuộc chúng ta có thể chẳng tin tưởng vào ân sủng bao nhiêu. Quả thật, nếu như không nhìn nhận thực tế cụ thể và giới hạn của mình, chúng ta sẽ không thể nhận ra những bước tiến thực sự mà Thiên Chúa có thể đòi hỏi chúng ta ở mỗi thời điểm, một khi chúng ta được ân sủng của Ngài lôi cuốn và tăng thêm sức mạnh. Ân sủng hành động trong lịch sử; ân sủng thường nắm giữ và dần dần biến đổi chúng ta.52 Nếu chúng ta từ chối thực tại lịch sử và tiệm tiến này, chúng ta thật ra cũng có thể từ chối và ngăn cản ân sủng, cho dù chúng ta có tán dương ân sủng bằng lời lẽ của mình.

51. Khi Thiên Chúa ngỏ lời với ông Abraham, Ngài bảo: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo” (St 17,1).  Để nên hoàn hảo như Thiên Chúa muốn, chúng ta cần phải hiện diện khiêm hạ trước thánh nhan vinh quang của Ngài. Chúng ta cần phải tiến bước trong sự kết hợp với Ngài, đồng thời nhận ra mình luôn được Ngài yêu thương. Chúng ta cần loại bỏ nỗi sợ hãi trước sự hiện diện của Ngài, sự hiện diện vốn chỉ mang lại điều thiện hảo cho chúng ta. Thiên Chúa là người Cha đã ban tặng sự sống cho chúng ta và rất mực yêu thương chúng ta. Một khi chúng ta biết chấp nhận Ngài, và không còn cố sống cuộc đời mình mà không cần đến Ngài, thì nỗi phiền muộn cô đơn sẽ tan biến (x. Tv 139,7). Nếu chúng ta không còn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình, và nếu chúng ta sống trong sự hiện diện của Ngài, chúng ta có thể để cho Ngài dò xét con tim chúng ta, để Ngài biết liệu nó có đi trên đường ngay nẻo chính hay không (x. Tv 139,23-24). Bằng cách này, chúng ta sẽ nhận ra ý Chúa, biết đâu là điều đẹp lòng Ngài và đâu là điều hoàn hảo (x. Rm 12,1-2), và chúng ta sẽ để cho Ngài nặn đúc mình như một người thợ gốm (x. Is 29,16). Chúng ta thường nói rằng Thiên Chúa ở trong chúng ta, nhưng tốt hơn nên nói rằng chúng ta ở trong Ngài, và Ngài giúp chúng ta sống trong ánh sáng và tình yêu của Ngài. Ngài là đền thờ của chúng ta; chúng ta khấn xin được cư ngụ trong nhà Chúa mọi ngày suốt cuộc đời (x. Tv 27,4). “Vì một ngày tại khuôn viên thánh điện quý hơn cả ngàn ngày ở nơi đâu khác” (x. Tv 84,11). Ở trong Ngài chúng ta được nên thánh.

Một giáo huấn của Giáo Hội thường bị lãng quên

52. Hội Thánh vẫn thường dạy rằng chúng ta được công chính hóa không phải bởi các việc làm hay những nỗ lực của bản thân, nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Đấng luôn đi bước trước. Các giáo phụ, ngay cả trước Thánh Augustinô, đã diễn đạt xác tín nền tảng này cách rõ ràng. Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói rằng Thiên Chúa tuôn đổ chính nguồn mạch các ân sủng của Ngài cho chúng ta trước cả khi chúng ta bước vào cuộc chiến đấu.53 Thánh Basiliô Cả đã lưu ý rằng người tín hữu chỉ được vinh quang trong Chúa mà thôi, bởi “họ nhận biết rằng mình không có sự công chính đích thực và được công chính hóa, nhưng chỉ nhờ lòng tin vào Chúa Kitô mà thôi”.54

53. Công đồng Orange II, với thẩm quyền vững chắc đã truyền dạy rằng không ai có thể đòi hỏi, xứng đáng, hay mua được ân sủng của Thiên Chúa, và mọi sự cộng tác với ân sủng đều là ơn được ban trước của chính ân sủng ấy: “Ngay cả ước muốn được thanh tẩy cũng là hiệu quả của Thánh Thần tuôn tràn và hoạt động nơi chúng ta”.55 Tiếp nối giáo lý này, Công đồng Trentô, ngay khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự cộng tác của chúng ta trong sự tăng trưởng thiêng liêng, cũng đã khẳng định lại: “Chúng ta được dạy rằng chúng ta được công chính hóa cách nhưng không, bởi vì không có điều gì đi trước sự công chính hóa, không phải đức tin cũng không phải việc làm xứng đáng với ơn công chính hóa; vì ‘nếu nhờ ân sủng, thì không phải do việc làm nữa, chẳng vậy ân sủng sẽ không còn là ân sủng nữa’ (Rm 11,6)”.56

54. Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo cũng nhắc chúng ta rằng ân sủng thì “vượt trên mọi tài năng của trí tuệ và sức mạnh của ý chí nhân linh”,57 và “trước mặt Thiên Chúa, theo đúng nghĩa, con người không có công trạng gì. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự bất bình đẳng vô cùng”.58 Tình bạn của Ngài vô cùng siêu vượt trên chúng ta. Ta không thể mua được tình bạn ấy bằng những việc làm của mình; nó chỉ có thể là một ơn ban do sáng kiến yêu thương của Ngài mà thôi. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong niềm tri ân hoan hỉ bởi ân ban mà mình hoàn toàn bất xứng này, vì “khi một người nhận được ân sủng, thì ân sủng đã nhận được ấy không bởi người ta xứng đáng”.59 Các thánh không cậy dựa vào việc làm của chính mình: “Vào lúc hoàng hôn của cuộc đời, con sẽ ra trước nhan Chúa với đôi tay trống rỗng, vì, lạy Chúa, con không xin Chúa kể đến những việc làm của con. Mọi việc công chính của chúng con đều hoen ố trước mắt Ngài”.60

55. Đây là một trong những xác tín lớn mà Hội Thánh đã nắm vững và đã diễn tả rõ ràng trong Lời Chúa đến độ không còn có thể nghi ngờ gì nữa. Cũng như điều răn trọng nhất về yêu thương, chân lý ấy phải ghi dấu ấn trên lối sống của chúng ta, bởi lẽ chân lý ấy khởi nguồn từ trọng tâm của Tin Mừng và mời gọi ta không những đón nhận bằng lý trí nhưng còn phải làm cho nó thành một nguồn vui lan tỏa. Tuy nhiên, chúng ta không thể mừng vì ơn huệ nhưng không này, tức là tình bạn với Thiên Chúa, trừ khi chúng ta nhận ra rằng cả đời sống trần thế và các khả năng tự nhiên của chúng ta cũng là ơn huệ Thiên Chúa ban. Chúng ta phải “hân hoan nhìn nhận rằng đời sống của chúng ta là một quà tặng và cũng nhận ra rằng tự do của chúng ta là một ân sủng. Đây không phải là điều dễ dàng trong thời đại hôm nay, giữa một thế giới vốn nghĩ rằng tự mình có thể sở hữu được điều gì đó, như thể là thành quả của sáng kiến hay tự do của chính mình”.61

56. Chỉ nhờ ơn Chúa được đón nhận cách tự do và khiêm tốn, chúng ta mới có thể cộng tác vào sự biến đổi bản thân ngày càng tốt hơn bằng những cố gắng của mình.62 Trước hết, chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta dâng hiến chính mình cho Ngài, Đấng luôn đi bước trước, và dâng cho Ngài các khả năng, các cố gắng dấn thân, cuộc chiến  chống  lại sự dữ và khả năng sáng tạo của chúng ta, để ơn huệ nhưng không của Ngài được lớn lên và tăng trưởng trong chúng ta: “Vì thế, anh em thân mến, tôi nài xin anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12,1). Chính vì thế, Giáo Hội đã luôn dạy rằng duy chỉ đức ái mới có thể làm tăng trưởng đời sống ân sủng, vì “nếu tôi không có đức ái, thì tôi chẳng là gì” (1 Cr 13,2).

Những người theo thuyết Tân Pêlagiô

57. Thế nhưng vẫn còn một số Kitô hữu cố đi theo con đường khác: con đường công chính hóa bằng nỗ lực riêng của mình, nghĩa là tôn thờ ý chí phàm nhân và các khả năng của con người. Hệ quả từ đó là họ tự mãn cho mình là trung tâm và là thành phần ưu tú, nhưng không có tình yêu đích thật. Điều này biểu hiện qua nhiều thái độ có vẻ rất khác nhau: bị ám ảnh bởi luật lệ, bận tâm đến vẻ hào nhoáng của các lợi lộc xã hội và chính trị, chăm chút phô trương đến phụng vụ, đạo lý và uy tín của Hội Thánh, kiêu hãnh về khả năng xử lý các vấn đề thực tế, và quá lo lắng đến những chương trình tự quản và tự thể hiện mình. Một số Kitô hữu tốn thời gian và sức lực cho những điều đó, thay vì để mình được Thần Khí hướng dẫn trên con đường yêu thương, và hăng say truyền thông vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng, cũng như tìm kiếm những con người còn xa cách giữa đám đông bao la đang khao khát Đức Kitô.63

58. Thường khi, vì đi ngược với sự thúc đẩy của Thần Khí, đời sống của Giáo Hội trở thành một món mẫu của bảo tàng hay của riêng một thiểu số ưu tuyển. Điều này xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu đề cao thái quá một số quy tắc, tập tục hay những lối hành xử riêng nào đó. Khi ấy, Tin Mừng có nguy cơ bị giản lược và bị bóp nghẹt, bị tước mất tính đơn sơ, sức hấp dẫn và hương vị của nó. Đây có thể là một hình thức tinh tế của khuynh hướng Pêlagiô, vì nó có vẻ như đặt đời sống ân sủng lệ thuộc vào một số cơ cấu nhân loại. Hình thức này có thể tác động đến các nhóm, phong trào và các cộng đoàn, và điều này giải thích tại sao rất thường khi họ khởi đầu với một sức sống hết sức mạnh mẽ trong Thần Khí, nhưng kết cục chỉ là khô cằn… hay hư hoại.

59. Nếu không lưu ý đến điều đó mà cứ tin rằng mọi sự đều tùy thuộc vào nỗ lực của con người được định hướng bởi những quy tắc và những cơ cấu Giáo Hội, chúng ta sẽ làm cho Tin Mừng trở nên phức tạp và biến mình thành nô lệ cho một khung cơ chế vốn chừa rất ít chỗ cho ân sủng hoạt động. Thánh Tôma Aquinô đã nhắc chúng ta rằng các giới luật được Giáo Hội thêm vào Tin Mừng nên được áp dụng cách chừng mực, “để đời sống của người tín hữu không hóa ra nặng nề”, vì như vậy tôn giáo của chúng ta sẽ biến thành một hình thức nô lệ.64

Tóm lược Lề Luật

60. Để tránh điều đó, chúng ta nên thường xuyên ghi nhớ rằng có một phẩm trật các nhân đức và chúng mời gọi ta tìm kiếm điều cốt yếu. Trên hết là các nhân đức đối thần, nhận Thiên Chúa là đối tượng và động lực còn đức ái là trọng tâm. Thánh Phaolô nói rằng điều thật sự đáng kể là “đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6). Chúng ta được mời gọi phải cố hết sức để duy trì đức ái: “Ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật… [vì] yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,8.10). “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5,14).

61. Nói cách khác, giữa một rừng dày đặc các mệnh lệnh và quy tắc, Chúa Giêsu soi tỏ một lối đường giúp nhìn thấy hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Chúa Cha và khuôn mặt của người anh em. Người không trao thêm cho chúng ta hai công thức hay hai điều răn. Người trao cho chúng ta hai khuôn mặt, hay đúng hơn, chỉ một mà thôi: đó là khuôn mặt của Thiên Chúa được phản chiếu nơi nhiều khuôn mặt khác. Vì nơi mỗi anh chị em mình, đặc biệt là những người bé mọn, yếu đuối, cô thế và những người túng thiếu, chúng ta gặp thấy chính hình ảnh Thiên Chúa. Thật vậy, với những mảnh đời nhân loại mỏng giòn này, Chúa sẽ làm nên tuyệt phẩm nghệ thuật chung cuộc của Ngài. Bởi vì “cái gì sẽ tồn tại, cái gì có giá trị trong đời sống, của cải nào không mất đi? Chắc chắn là hai điều này: Thiên Chúa và tha nhân. Hai của cải này sẽ không mất được!”65

62. Nguyện xin Thiên Chúa giải thoát Hội Thánh khỏi các hình thức mới của thuyết Ngộ đạo và thuyết Pêlagiô đang làm rối rắm và kìm hãm Hội Thánh trên đường nên thánh! Những sai lạc này mang những hình thức khác nhau, tùy theo tính khí và tính cách của mỗi người. Vì vậy, tôi khuyên nhủ mỗi người nên tự vấn và phân định trước mặt Thiên Chúa để xem những sai lạc ấy có thể tồn tại trong đời sống mình như thế nào.

CHƯƠNG III – TRONG ÁNH SÁNG CỦA VỊ TÔN SƯ

63. Có thể có nhiều lý thuyết về điều gì làm nên sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và phân biệt khác nhau. Suy tư như vậy có thể hữu ích, nhưng không gì giúp soi sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và nhìn xem cách Người giảng dạy chân lý. Đức Giêsu giải thích một cách rất giản dị nên thánh có nghĩa là gì khi Người ban cho chúng ta các Mối Phúc (x. Mt 5,3-12; Lc 6,20-23). Các Mối Phúc tựa như thẻ căn cước của người Kitô hữu. Vì vậy, nếu ai hỏi: “Ta phải làm gì để trở nên một Kitô hữu tốt?” thì câu trả lời rất đơn giản. Chúng ta phải làm, mỗi người theo cách riêng của mình, điều Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Bài Giảng về các Mối Phúc.66 Trong các Mối Phúc, chúng ta tìm thấy một chân dung của vị Tôn Sư, và chúng ta được mời gọi phản chiếu chân dung ấy trong cuộc sống hằng ngày của mình.

64. Vậy, chữ “hạnh phúc” hay “có phúc” đồng nghĩa với “thánh thiện”. Nó diễn tả điều này, là những ai trung thành với Thiên Chúa và Lời của Ngài, khi tự hiến, thì đạt được hạnh phúc thật.

LỘI NGƯỢC DÒNG

65. Mặc dù những lời của Chúa Giêsu có thể nghe thi vị, nhưng chúng rõ ràng đi ngược những gì người ta thường làm trong xã hội. Cho dù chúng ta thấy  sứ điệp của Chúa Giêsu hấp dẫn, thế giới vẫn đẩy chúng ta hướng tới một lối sống khác. Các Mối Phúc không hề dễ dãi hay hời hợt, mà hoàn toàn ngược lại, chúng ta chỉ có thể thực hành các Mối Phúc nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy sức mạnh của Ngài trên chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi sự yếu đuối, ích kỷ, tự mãn và kiêu căng của mình.

66. Một lần nữa, chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giêsu với tất cả lòng yêu thương và kính trọng mà vị Tôn sư đáng nhận được. Chúng ta hãy để cho những lời của Người khuấy động, thúc bách và đòi hỏi chúng ta phải thật sự thay đổi cách sống của mình. Bằng không, sự thánh thiện vẫn chẳng khác gì một từ ngữ trống rỗng. Giờ đây chúng ta trở về từng Mối Phúc trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu (x. Mt 5,3-12).67

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ”

67. Tin Mừng mời gọi chúng ta nhận ra sự thật của lòng mình, để thấy đâu là nơi ta tìm được bảo đảm của cuộc sống mình. Người giàu thường cảm thấy bảo đảm nơi của cải và nghĩ rằng nếu của cải bị đe dọa, thì toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của họ trên đời này có thể sụp đổ. Chính Đức Giêsu nói với ta điều này trong dụ ngôn người phú hộ khờ dại, Người nói về một người kia tự tin nơi mình, nhưng ngu dại, vì đã không hề nghĩ rằng mình có thể chết ngay hôm ấy (x. Lc 12, 16-21).

Bài này đã được xem 612 lần!

Pages ( 3 of 10 ): <12 3 45 ... 10>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]