68. Của cải chẳng bảo đảm được gì cả. Thật vậy, một khi nghĩ mình giàu có, chúng ta có thể trở nên quá tự mãn đến nỗi chẳng dành chỗ nào cho Lời Chúa, cho tình yêu đối với anh chị em mình, hoặc để vui hưởng những điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Như thế, chúng ta bỏ lỡ những phúc lợi lớn nhất. Vì thế, Đức Giêsu gọi những người có tinh thần nghèo khó là những người có phúc, họ có một trái tim nghèo khó đáng thương mà Chúa có thể bước vào kèm theo sự mới mẻ của Người.
69. Sự nghèo khó thiêng liêng này liên quan mật thiết đến những gì Thánh Inhaxiô Loyola gọi là “sự bình tâm thánh thiện”, nhờ đó chúng ta đạt tới sự tự do nội tâm tuyệt vời: “Do đó, cần phải giữ cho mình được bình tâm đối với mọi thọ tạo (trong tất cả những gì mà ý chí tự do của chúng ta được phép chọn mà không bị cấm cản) tới mức ta không ước muốn sức khoẻ cho mình hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu, và tương tự như thế đối với mọi sự khác”.68
70. Thánh Luca không nói về sự nghèo khó “trong tinh thần” mà chỉ nói đến những người “nghèo khó” (x. Lc 6,20), và như thế, ngài cũng mời gọi chúng ta sống một cuộc đời khổ hạnh và giản dị. Bằng cách này, ngài mời gọi chúng ta chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất, cuộc sống mà các Tông đồ đã sống, và cuối cùng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, Đấng tuy giàu có, nhưng “đã làm cho mình nên nghèo khó” (2 Cr 8,9). Khó nghèo trong lòng: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp”
71. Những lời này diễn tả thật mạnh mẽ trong một thế giới mà ngay từ đầu, ở khắp nơi đã xuất hiện thù địch, tranh chấp và hận thù, ở nơi mà chúng ta thường xuyên xếp loại người khác theo tư tưởng và tập tục của họ, thậm chí trên cách nói năng hay ăn mặc của họ. Tóm lại, đó là nơi ngự trị của kiêu hãnh và hư danh, nơi mà mỗi người nghĩ rằng mình có quyền đứng trên những người khác. Tuy nhiên, Đức Giêsu đề nghị một lối sống khác, dù có vẻ như không thể được, đó là con đường hiền lành. Đây là điều ta thấy Người sống với các môn đệ và là điều mà chúng ta chiêm ngắm khi Người vào thành Giêrusalem: “Này, đức vua của ngươi đang đến với ngươi, khiêm nhường ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5, x. Dcr 9,9).
72. Đức Kitô nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29). Nếu chúng ta nóng nảy và cao ngạo trước những người khác, kết cuộc chúng ta sẽ bị mệt mỏi và kiệt sức. Nhưng nếu chúng ta nhìn những lỗi lầm và giới hạn của họ cách dịu dàng và hiền từ, không ra vẻ kẻ cả, thì chúng ta có thể thực sự giúp ích họ và không phí năng lực vào việc phàn nàn vô ích. Thánh Têrêxa thành Lisieux nói với chúng ta rằng “Đức ái hoàn hảo hệ tại ở việc chịu đựng các sai lỗi của người khác, và không bị vấp phạm vì các lầm lỗi của họ”.69
73. Thánh Phaolô nói sự hiền lành là một trong những hoa quả của Thánh Thần (x. Gl 5,23). Ngài đề nghị rằng, nếu đôi khi một hành động sai trái nào đó của anh em làm phiền lòng ta, thì ta hãy đến mà sửa sai họ, nhưng “với một tinh thần hiền lành”, bởi vì “bạn cũng có thể bị cám dỗ” (Gl 6,1). Ngay cả khi bảo vệ đức tin và các xác tín của mình, chúng ta cũng phải làm “một cách hiền hòa” (x. 1 Pr 3,16). Ta cũng phải hiền lành đối xử với các kẻ thù (2 Tm 2,25). Trong Hội Thánh, chúng ta thường sai lỗi vì không đáp ứng đòi hỏi này của Lời Chúa.
74. Hiền lành là một cách diễn tả khác của sự nghèo khó nội tâm nơi những người tin cậy vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Quả thực, trong Thánh Kinh cũng có một từ thường dùng để nói về người nghèo và người hiền lành, đó là từ anawim. Có thể có người phản đối: “Nếu tôi hiền lành quá, người ta sẽ nghĩ tôi là một đứa ngốc nghếch, một kẻ khờ khạo hay nhu nhược”. Đôi khi có thể như vậy, nhưng cứ để mặc kẻ khác nghĩ như thế. Luôn hiền lành là điều tốt hơn, và rồi những ước vọng sâu xa nhất của ta sẽ được thành tựu. Người hiền lành “sẽ được đất hứa làm gia nghiệp”, vì họ sẽ thấy lời hứa của Thiên Chúa được hoàn thành trong cuộc đời mình. Trong mọi hoàn cảnh, người hiền lành trông cậy vào Chúa, và những ai trông cậy vào Người sẽ được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng chan hòa bình an (x. Tv 37, 9.11). Còn Chúa thì tin tưởng nơi họ: “Kẻ được Ta đoái nhìn, đó là người nghèo khổ, người có tâm hồn tan nát, người biết kính sợ Lời Ta” (Is 66,2).
Cư xử cách hiền lành và khiêm nhường, đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”
75. Thế giới nói với chúng ta điều ngược lại: giải trí, thú vui, tiêu khiển và thoát ly thực tế mới làm cho cuộc sống dễ chịu. Người thế gian ngoảnh mặt trước những vấn đề ốm đau hay buồn phiền nơi gia đình hoặc chung quanh mình. Thế giới không muốn khóc lóc; đúng hơn, họ không quan tâm đến những tình cảnh đau thương, tìm cách phủ lấp hoặc che giấu các hoàn cảnh ấy. Người ta tốn nhiều công sức để chạy trốn đau khổ, và tưởng rằng có thể che giấu được thực tại, nhưng thực tế cuộc sống không bao giờ vắng bóng thập giá.
76. Một người biết nhìn các sự vật đúng như sự thật của chúng, biết cảm nhận những đau khổ và muộn phiền, thì mới có thể chạm đến chiều sâu của đời sống và tìm được hạnh phúc chân thực.70 Người ấy được Chúa Giêsu an ủi chứ không phải thế gian. Người như thế không sợ chia sẻ đau khổ của người khác và không trốn tránh những hoàn cảnh đau thương. Như thế, họ khám phá ý nghĩa cuộc sống bằng cách giúp đỡ những người đau khổ, cảm thông nỗi thống khổ của người ta và mang lại sự xoa dịu. Người ấy cảm nhận tha nhân là thịt xương của chính mình, và không sợ đến gần, thậm chí chạm vào các vết thương của họ. Họ cảm thương người khác đến nỗi mọi khoảng cách đều không còn. Như thế, người ấy có thể đón lời khích lệ của Thánh Phaolô: “Hãy khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Biết khóc với người khác: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai khát khao sự công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng”
77. “Đói và khát” là những kinh nghiệm mãnh liệt vì chúng can dự đến những nhu cầu cơ bản và bản năng sống còn của chúng ta. Có những người khao khát công lý và tìm kiếm công lý cũng mãnh liệt như thế. Đức Giêsu nói rằng họ sẽ được thỏa lòng, vì sớm hay muộn, công lý sẽ đến. Chúng ta có thể hợp tác để làm cho điều ấy có thể xảy ra, mặc dù không phải chúng ta luôn luôn thấy được các nỗ lực của mình sinh hoa kết quả.
78. Đức Giêsu đưa ra một nền công lý khác với thứ công lý của thế gian, vốn thường bị hoen ố bởi những lợi lộc nhỏ nhen và bị thao túng bằng nhiều cách. Thực tế cho thấy người ta dễ sa lầy vào tham nhũng, vướng mắc trong thứ chính trị thường nhật “có đi có lại” (quid pro quo), trong đó mọi sự trở thành mua bán đổi chác. Biết bao người phải chịu sự bất công, đành bất lực đứng nhìn đang khi những người khác chia nhau những lợi lộc của cuộc sống này. Một số bỏ cuộc chiến đấu cho công lý đích thực và lựa chọn bắt tay với kẻ thắng thế. Điều này không liên quan gì đến sự đói khát công lý mà Đức Giêsu ca tụng.
79. Công lý đó khởi sự thành hiện thực trong đời sống của mỗi người khi người ta chính trực trong các quyết định của mình; và rồi nó lại được diễn tả nơi việc họ tìm kiếm công lý cho người nghèo và người cô thế. Quả thực từ ngữ “công lý” có thể đồng nghĩa với sự trung thành với thánh ý Chúa trong toàn thể cuộc sống chúng ta, nhưng nếu ta gán cho từ ngữ này một ý nghĩa quá rộng, là ta quên rằng nó đã được tỏ lộ cách riêng theo nghĩa công lý cho những người yếu thế nhất: “Tìm kiếm lẽ công bằng, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is 1,17).
Đói khát sự công chính: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”
80. Lòng thương xót có hai mặt. Nó liên quan đến việc chia sẻ, giúp đỡ và phục vụ người khác, nhưng nó cũng bao hàm sự tha thứ và thông cảm. Thánh Mátthêu tóm lược nó trong một khuôn vàng thước ngọc: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (7,12). Sách Giáo lý nhắc nhở chúng ta rằng luật này phải được áp dụng “trong mọi trường hợp”,71 đặc biệt là khi chúng ta “đối diện với những hoàn cảnh làm cho các phán đoán luân lý ít chắc chắn hơn và làm cho quyết định nên khó khăn”.72
81. Chia sẻ và tha thứ là chiếu tỏa trong cuộc sống chúng ta một chút phản chiếu sự hoàn hảo của Thiên Chúa, Đấng trao hiến và tha thứ vô lượng. Vì lẽ này, trong Tin Mừng Luca, chúng ta không nghe thấy nói “anh em hãy nên hoàn thiện” (Mt 5,48), nhưng là, “anh em hãy biết thương xót như Cha anh em là Đấng hay thương xót. Anh em đừng xét đoán, thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (6,36-38). Và rồi, Thánh Luca thêm một điều mà ta không được bỏ qua: “Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (6,38). Thước đo mà chúng ta dùng để cảm thông và tha thứ cho người khác sẽ được Thiên Chúa dùng để tha thứ cho chúng ta. Thước đo chúng ta dùng để trao ban sẽ đo lường phần thưởng chúng ta nhận được trên trời. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này.
82. Đức Giêsu không nói “Phúc thay những kẻ tìm cách báo thù”, nhưng Người gọi là “có phúc” đối với những người biết tha thứ và tha thứ “đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Chúng ta cần nghĩ về chính mình như một đạo quân gồm những người được tha thứ. Tất cả chúng ta đã được Thiên Chúa xót thương nhìn đến. Nếu chúng ta chân thành đến với Chúa và chăm chú lắng nghe, có thể có lúc chúng ta nghe Người quở trách: “Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,33).
Biết nhìn và hành động với lòng thương xót: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai có lòng trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”
83. Mối Phúc này nói về những người có tâm hồn đơn sơ, thanh khiết và không hoen ố, vì một trái tim biết yêu thương không để bất cứ thứ gì đi vào đời mình chực làm nguy hại, suy yếu hoặc gây nguy hiểm cho tình yêu ấy. Trong Thánh Kinh, trái tim là nơi chất chứa những ý hướng thực sự của chúng ta, những điều chúng ta thực sự tìm kiếm và khao khát, khác với hết thảy những vẻ bề ngoài. “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16,7). Thiên Chúa muốn nói với con tim chúng ta (x. Hs 2,16), nơi đó Ngài muốn ghi tạc Lề Luật của Ngài (x. Gr 31,33). Nói tóm lại, Ngài muốn ban cho chúng ta một quả tim mới (x. Ed 26,26).
84. “Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ” (Cn 4,23). Những thứ giả trá nhơ bẩn thật không có chút giá trị gì trước mặt Chúa, Ngài “tránh thói lọc lừa, rời xa những lý luận ngu dốt” (Kn 1,5). Chúa Cha, “Đấng thấu suốt mọi bí ẩn” (Mt 6,6), nhận biết những gì ô uế, nghĩa là những gì không chân thành, chỉ phô trương hay bề ngoài. Cũng như Chúa Con, Ngài biết “có gì trong lòng con người” (x. Ga 2,25).
85. Đúng là không thể có yêu thương mà không có những việc làm của yêu thương, nhưng Mối Phúc này nhắc nhở chúng ta rằng Chúa mong đợi một sự dấn thân cho anh chị em mình phát xuất từ con tim, vì “giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Trong Tin Mừng Mátthêu, chúng ta thấy cái xuất phát từ trong lòng người ta là cái làm cho họ ra ô uế (x. 15,18), vì từ lòng dạ phát xuất những ý định giết người, trộm cắp, làm chứng gian, và những việc xấu xa khác (x. 15,19). Từ những ý hướng trong lòng người khơi nguồn cho những khao khát và những quyết định thâm sâu dẫn tới các hành động của chúng ta.
86. Một con tim yêu mến Thiên Chúa và tha nhân (x. Mt 22,36-40) cách chân thật chứ không chỉ bằng lời nói suông, là một con tim trong sạch, và nó có thể nhìn thấy Thiên Chúa. Trong bài ca Đức Mến, Thánh Phaolô nói rằng “bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương” (1 Cr 13,12), nhưng khi tình yêu thực sự ngự trị, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy “mặt giáp mặt”. Đức Giêsu hứa rằng những ai có lòng trong sạch “sẽ nhìn thấy Thiên Chúa”.
Giữ cho trái tim khỏi mọi sự làm nhơ uế tình yêu: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”
87. Mối Phúc này khiến chúng ta nghĩ đến tình trạng bao nhiêu cuộc chiến tranh không dứt trong thế giới. Về phần mình, chúng ta thường là một nguyên nhân của xung đột hay ít ra là của sự hiểu lầm. Chẳng hạn như tôi nghe được một điều gì về một ai đó, và tôi đi kể lại cho người khác. Thậm chí tôi còn thêm thắt một chút và loan truyền nó đi. Và nếu nó càng tác hại, thì dường như tôi càng mãn nguyện. Thế giới của những kẻ ngồi lê đôi mách, chỉ chuyên chỉ trích và phá đổ, không xây dựng hòa bình, đúng hơn, những kẻ như vậy là kẻ thù của hòa bình và họ không hề “có phúc”.73
88. Những người kiến tạo hòa bình là mạch nguồn của bình an, họ xây dựng hòa bình và tình thân hữu trong xã hội. Đối với những người dấn thân gieo vãi hòa bình khắp nơi, Đức Giêsu đưa ra lời hứa tuyệt vời này: “Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Người bảo các môn đệ rằng, khi vào bất cứ nhà nào, hãy nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10,5). Lời Chúa khuyến khích mỗi tín hữu hãy ăn ở thuận hòa với mọi người khác (x. 2 Tm 2,22), “vì người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3,18). Và nếu như có những lúc trong cộng đoàn chúng ta tự hỏi mình phải làm gì, thì “chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an” (Rm 14,19), vì sự hiệp nhất thì tốt hơn xung đột.74
89. Quả là không dễ dàng “kiến tạo” sự bình an này của Tin Mừng, một sự bình an vốn không loại trừ ai, nhưng đón nhận ngay cả những người hơi kỳ cục, khó tính và sách nhiễu, hay yêu sách, lập dị, bị bầm dập bởi cuộc đời hoặc đơn giản là người thờ ơ. Đó là một công việc khó khăn, đòi hỏi trí và tâm phải thật rộng mở vì đây không phải là việc tạo ra “một thoả thuận trên giấy tờ hay một sự dàn hòa tạm thời cho một thiểu số được hài lòng”,75 cũng không phải là một dự phóng “của một ít người cho một ít người”.76 Đây cũng không phải là cố phớt lờ hoặc giấu đi sự mâu thuẫn, nhưng “chấp nhận đối diện với xung đột, giải quyết và biến xung đột thành một mắt xích liên kết trong một tiến trình mới”.77 Chúng ta phải là những nghệ nhân của hòa bình, vì xây dựng hoà bình là một nghệ thuật đòi hỏi sự bình tâm, sáng tạo, nhạy cảm và khéo léo.
Gieo rắc bình an quanh ta: đó là sự thánh thiện.
“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”
90. Chính Đức Giêsu lưu ý chúng ta rằng con đường này thì đi ngược dòng, đến độ khiến chúng ta trở nên những người chất vấn xã hội bằng cách sống của mình, và như thế, thành những kẻ gây phiền toái. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta về bao nhiêu người đã và đang bị bách hại chỉ vì họ đấu tranh cho công lý, bởi vì họ đã sống dấn thân cho Thiên Chúa và tha nhân. Nếu chúng ta không muốn chìm ngập trong một cuộc sống tăm tối tầm thường, thì đừng tìm kiếm một cuộc sống dễ dãi, vì “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất” (Mt 16,25).
91. Để sống Phúc âm, chúng ta không thể mong đợi mọi sự sẽ dễ dàng, vì những tham vọng quyền lực và lợi lộc thế gian thường chắn lối chúng ta. Thánh Gioan Phaolô II đã nói rằng “một xã hội bị vong thân nếu trong các hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu thụ làm cho việc trao hiến chính mình cũng như việc thiết lập tình liên đới này giữa con người với nhau trở nên khó khăn hơn”.78 Trong một xã hội như thế, một xã hội mà trong đó chính trị, truyền thông đại chúng, các cơ chế kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo cản trở sự phát triển nhân văn và xã hội đích thực, thì việc sống các Mối Phúc quả không dễ chút nào; thậm chí sống như thế còn bị người ta nhìn là tiêu cực, bị hoài nghi, và chế giễu.
Bài này đã được xem 610 lần!