92. Thập giá, nhất là những mệt mỏi và đau khổ mà chúng ta trải nghiệm khi sống luật yêu thương và theo đuổi con đường công lý, chính là nguồn tăng trưởng và thánh hóa. Chúng ta hãy nhớ rằng khi Tân Ước nói chúng ta sẽ phải chịu đau khổ vì Tin Mừng, chính là nói đến những cuộc bách hại (x. Cv 5,41; Pl 1,29; Cl 1,24; 2 Tm 1,12; 1 Pr 2,20; 4,14-16; Kh 2,10).
93. Nhưng ở đây chúng ta nói về những cuộc bách hại không tránh được, chứ không phải loại bách hại mà chính chúng ta có thể gây ra cho mình khi chúng ta đối xử với người khác một cách tồi tệ. Một vị thánh không phải là người kỳ dị, xa cách, người ta không thể chịu nổi vì sự kiêu căng, tính cách tiêu cực và sân hận của họ. Các Tông đồ của Đức Kitô không giống như thế. Sách Tông đồ Công vụ hay nhắc đi nhắc lại rằng các ngài được “toàn dân thương mến” (2,47; x. 4,21.33; 5,13), cả khi một số nhà cầm quyền sách nhiễu và bách hại các ngài (x. 4,1-3; 5,17-18).
94. Bách hại không phải là chuyện quá khứ, vì ngày nay chúng ta cũng trải nghiệm điều ấy, hoặc qua việc đổ máu như trường hợp nhiều vị tử đạo đương thời, hoặc bằng những phương cách tinh tế hơn như bị vu khống và lừa dối. Đức Giêsu gọi chúng ta là có phúc khi người ta “vu khống cho các con đủ điều xấu xa vì Thầy” (Mt 5,11). Vào những lúc khác, bách hại có thể xảy ra dưới hình thức những chế nhạo, tìm cách báng bổ đức tin của chúng ta và biến chúng ta thành như trò cười.
Chấp nhận con đường Phúc âm hằng ngày, dù có thể gặp khó khăn: đó là sự thánh thiện.
MỘT LUẬT SỐNG LỚN
95. Trong chương 25 của Tin Mừng Mátthêu (cc. 31-46), Đức Giêsu dừng lại ở Mối Phúc mà Người gọi những kẻ có lòng thương xót là có phúc. Nếu chúng ta tìm kiếm sự thánh thiện làm đẹp lòng Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy ở đoạn văn này một quy luật sống, theo đó chúng ta sẽ được xét xử. “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (25,35-36).
Để trung thành với vị Tôn sư
96. Sự thánh thiện, vì thế, không có nghĩa là ngây ngất trong một trạng thái huyền nhiệm xuất thần. Như Thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Nếu chúng ta thật sự bắt đầu lại từ việc chiêm ngắm Đức Kitô, thì chúng ta phải biết nhìn thấy Người cách đặc biệt nơi khuôn mặt của những kẻ mà chính Người muốn đồng hóa với họ”.79 Đoạn văn Mátthêu 25,35-36 “không chỉ là một lời mời gọi sống đức ái: đó là một trang Kitô học tỏa chiếu một tia sáng trên mầu nhiệm của Đức Kitô”.80 Trong lời kêu gọi nhận ra Người nơi những người nghèo và đau khổ này, chúng ta thấy tỏ lộ chính Thánh Tâm của Đức Kitô, những tình cảm và chọn lựa sâu thẳm nhất của Người mà mọi vị thánh đều tìm cách noi theo.
97. Trước những đòi hỏi cương quyết này của Đức Giêsu, bổn phận của tôi là xin các Kitô hữu thừa nhận và đón nhận chúng trong tinh thần cởi mở chân thành, sine glossa, nghĩa là, không bình luận, không suy nghĩ và không kỳ kèo thoái thác, điều có thể làm giảm nhẹ sức mạnh của chúng. Chúa đã nói rất rõ rằng ta không thể hiểu hay sống sự thánh thiện tách khỏi những đòi hỏi này, vì lòng thương xót là “con tim đang đập của Tin Mừng”.81
98. Khi tôi gặp một người ngủ ngoài trời trong một đêm giá lạnh giữa thời tiết xấu, tôi có thể nhìn sinh thể trong cuộn vải ấy như một phiền nhiễu bất chợt, một thứ lười nhác ăn hại, một vật cản trên đường mình đi, một mũi tiêm chích khó chịu vào lương tâm tôi, một vấn đề mà các chính trị gia phải giải quyết, hoặc thậm chí có thể đó là một thứ rác rưởi làm nhơ bẩn nơi công cộng. Hoặc tôi có thể đáp lại với đức tin và đức ái, và nhìn thấy người ấy là một con người với một phẩm giá giống như của tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu thương vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một anh chị em được Đức Kitô cứu chuộc. Làm Kitô hữu là như thế đó! Hoặc ta có thể hiểu sự thánh thiện mà không có sự nhìn nhận sinh động về phẩm giá của mỗi con người được không?82
99. Đối với các Kitô hữu, điều này kéo theo một sự bứt rứt lành mạnh và thường xuyên. Mặc dù giúp đỡ chỉ một người mà thôi đã có thể biện chính cho tất cả những nỗ lực của chúng ta, việc ấy cũng chưa đủ. Các giám mục Canađa đã diễn tả điều này rõ ràng khi các ngài cho thấy Thánh Kinh dạy về năm Toàn xá, chẳng hạn, rằng ý nghĩa không chỉ đơn thuần là làm một vài việc lành, mà còn là tìm cách thay đổi xã hội: “Để các thế hệ sau này cũng được giải thoát, rõ ràng mục tiêu phải là khôi phục các hệ thống xã hội và kinh tế công bằng để sao cho không còn có thể có sự loại trừ nữa”.83
Những ý thức hệ đánh vào trọng tâm của Tin Mừng
100. Tôi rất tiếc đôi khi những ý thức hệ dẫn chúng ta đến hai sai lầm nguy hại. Một đàng, sự sai lầm mà các Kitô hữu tách biệt những đòi hỏi của Tin Mừng ra khỏi mối quan hệ cá vị của họ với Chúa, khỏi sự kết hợp nội tâm của họ với Ngài, ra khỏi sự mở lòng trước ân sủng của Ngài. Như thế, Kitô giáo trở thành một loại tổ chức phi chính phủ (ONG), thiếu mất linh đạo ngời sáng được hiển lộ rõ ràng trong đời sống của các thánh như Phanxicô Assisi, Vinh Sơn Phaolô, Têrêsa thành Calcutta và nhiều vị thánh khác. Đối với những vị đại thánh này, sự cầu nguyện, tình yêu Thiên Chúa và việc đọc Tin Mừng không hề làm họ giảm bớt dấn thân say mê và hiệu quả cho tha nhân, mà hoàn toàn ngược lại.
101. Ngược lại, còn có sai lầm ý thức hệ nguy hại khác ta thấy nơi những kẻ hoài nghi sự dấn thân xã hội của người khác, coi đó như là cái gì hời hợt, thế gian, thế tục, duy vật, cộng sản hay dân túy. Hoặc họ tương đối hóa sự dấn thân đó như thể có những vấn đề khác quan trọng hơn, hoặc như thể điều duy nhất đáng kể là một nền đạo đức hay một nguyên tắc nào đó mà họ bảo vệ. Chẳng hạn, việc bảo vệ các thai nhi vô tội cần phải được rõ ràng, dứt khoát và quyết liệt, vì đây là phẩm giá của sự sống con người vốn luôn thánh thiêng và phải được yêu thương bất kể ở giai đoạn phát triển nào. Tuy nhiên, cũng thánh thiêng không kém, đó là sự sống của những người nghèo, những con người đã được sinh ra, những kẻ cùng khổ, những người bị bỏ rơi và bị loại trừ, những kẻ yếu đuối bị buôn bán, những người đau yếu bị làm mồi cho người khác xử cái chết êm dịu được giấu giếm, những người già cả bị bỏ rơi, những hình thức nô lệ mới và mọi hình thức loại trừ.84 Chúng ta không thể ủng hộ một lý tưởng về sự thánh thiện mà lại thờ ơ trước những bất công của thế giới này, trong đó một số người thì chè chén say sưa, tiêu xài hoang phí và chỉ biết mua sắm, hưởng thụ những món hàng mới nhất, trong khi đó những người khác chỉ đứng nhìn từ xa, và sống trọn cuộc đời mình trong cùng khổ.
102. Chúng ta thường nghe nói đứng trước chủ nghĩa tương đối và những sai lầm của thế giới hiện nay, tình trạng di dân chẳng hạn, là một vấn đề ít quan trọng hơn. Một số người Công giáo coi đó là vấn đề thứ yếu so với những vấn đề đạo đức sinh học “nghiêm trọng”. Một chính khách đang bận tâm đến phiếu bầu cho mình mà nói như thế thì còn có thể hiểu được, nhưng một Kitô hữu thì không, vì đối với họ, thái độ phù hợp duy nhất là đặt mình vào hoàn cảnh của các anh chị em phải liều mạng sống mình để tìm kiếm một tương lai cho con cái họ. Chúng ta không thể nhận ra rằng đây chính là điều mà Đức Giêsu đòi hỏi, khi Người bảo rằng mỗi khi ta đón tiếp khách lạ là ta đón tiếp Người đó sao? (x. Mt 25,35). Thánh Biển Đức đã sẵn sàng làm như thế, và mặc dù điều đó có thể gây “phức tạp”cho cuộc sống các đan sĩ của ngài, ngài vẫn ra lệnh rằng tất cả các khách gõ cửa tu viện phải được đón tiếp “như Đức Kitô”,85 với thái độ tôn kính,86 họ phải cư xử với người nghèo và khách hành hương bằng “tất cả sự ân cần và quan tâm”.87
103. Trong Cựu Ước ta cũng thấy có điều tương tự: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai cập” (Xh 22,21). “Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai cập” (Lv 19,33-34). Như thế, đây không phải là điều sáng chế của một Giáo hoàng nào đó hoặc bởi một cơn cuồng nhiệt nhất thời. Cũng trong thế giới hôm nay, chúng ta được mời gọi đi theo con đường khai sáng thiêng liêng được tiên tri Isaia đề ra khi ngài tự hỏi điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. “Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông” (58,7-8).
Sự thờ phượng Thiên Chúa yêu thích nhất
104. Chúng ta có thể nghĩ rằng mình tôn vinh Thiên Chúa chỉ bằng việc thờ phượng và cầu nguyện, hoặc đơn giản bằng cách tuân giữ một số quy tắc đạo đức nào đó. Quả đúng là quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa mới là điều tối thượng, nhưng chúng ta đừng quên rằng tiêu chuẩn để phán xét cuộc đời chúng ta trước hết là những gì mình đã làm cho tha nhân. Cầu nguyện là điều quý báu vì cầu nguyện nuôi dưỡng sự hiến thân yêu thương hằng ngày. Việc thờ phượng của chúng ta đẹp lòng Thiên Chúa khi chúng ta hiến mình sống quảng đại, và để cho ơn ban ta nhận được trong cầu nguyện được thể hiện trong khi chúng ta hiến thân cho anh em mình.
105. Cũng vì thế, cách tốt nhất để nhận biết việc cầu nguyện của chúng ta có chân thực hay không, đó là xét xem cuộc sống của mình đã được biến đổi tới mức nào trong ánh sáng của lòng thương xót. Vì “lòng thương xót không chỉ là hành động của Chúa Cha; nhưng trở thành tiêu chuẩn để hiểu ai là con cái đích thực của Ngài”.88 Lòng thương xót “là chính nền tảng của đời sống Giáo Hội”.89 Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng, mặc dù lòng thương xót không loại trừ công lý và sự thật, “trước hết chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự viên mãn của công lý và biểu lộ rạng rỡ nhất sự thật của Thiên Chúa”.90 Đó là “chìa khóa dẫn vào Thiên Đàng”.91
106. Ở đây, tôi không thể không nhắc đến câu hỏi Thánh Tôma Aquinô đã đặt ra khi ngài hỏi những hành động nào của chúng ta là cao quý nhất, những việc làm bên ngoài nào biểu lộ rõ nhất tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Thánh Tôma không lưỡng lự trả lời rằng đó là những việc làm của lòng thương xót đối với người lân cận của chúng ta,92 hơn cả những việc thờ phượng của chúng ta: “Chúng ta thờ phượng Thiên Chúa bằng những hy sinh và của lễ bên ngoài, không phải đem lại lợi ích gì cho Ngài, mà cho chính chúng ta và những người lân cận của chúng ta. Quả thật, Ngài không cần những hi lễ của chúng ta, nhưng ngài muốn chúng ta dâng những hy sinh đó cho Ngài, để khơi dậy lòng sùng mộ của chúng ta và sinh ích cho tha nhân. Vì thế, do bởi lòng thương xót mà chúng ta trợ giúp những nhu cầu cấp thiết của người khác, là một hy lễ được Ngài yêu thích hơn vì hướng trực tiếp đến thiện ích của tha nhân”.93
107. Những người thực sự muốn làm vinh danh Thiên Chúa bằng đời sống của mình, những người thực sự ao ước được nên thánh để biến cuộc đời mình tôn vinh Đấng Thánh, là những người được mời gọi cố gắng dâng hiến bền bỉ trong việc thực thi các công việc của lòng thương xót. Thánh Têrêsa Calcutta rất hiểu điều này: “Vâng, tôi mang nhiều yếu đuối và khốn cùng của phận người. […] Nhưng Thiên Chúa đã đoái thương sử dụng chúng ta, bạn và tôi, để trở nên tình yêu và lòng trắc ẩn của Ngài trong thế giới; bất chấp ta tội lỗi, đớn hèn và nhiều lỗi lầm. Người nhờ chúng ta để yêu thế giới và để cho thấy Người yêu thế giới biết bao. Nếu chúng ta quá quan tâm đến mình, chúng ta sẽ không còn thời giờ cho người khác”.94
108. Chủ nghĩa khoái lạc và tiêu thụ có thể cho thấy sự suy sụp của chúng ta, vì một khi cứ mải mê tìm lạc thú, rốt cuộc chúng ta sẽ quá bận tâm đến bản thân mình, đến các quyền lợi của mình, và chúng ta sẽ cảm thấy bức bối vì thiếu thời giờ để hưởng thụ. Chúng ta sẽ khó mà bận lòng và dành sức lực để giúp đỡ những người nghèo khổ trừ phi chúng ta có một đời sống giản dị thế nào đó, trừ phi chúng ta đấu tranh chống lại cơn sốt các yêu cầu mà xã hội tiêu thụ đè nặng trên chúng ta, biến chúng ta trở nên nghèo nàn và không thỏa mãn, muốn có và muốn thử mọi sự ngay lập tức. Tương tự như thế, khi chúng ta để mình bị cuốn vào những thông tin hời hợt, các phương tiện truyền thông tức thời và thực tại ảo, chúng ta có thể lãng phí thời giờ quý báu và trở nên dửng dưng trước những xác thể đau khổ của anh em mình. Giữa cơn lốc xoáy hiện nay, Tin Mừng lại vang lên và trao ban cho chúng ta một đời sống khác, một đời sống lành mạnh và hạnh phúc hơn.
109. Chứng từ mạnh mẽ của các thánh được tỏ lộ nơi việc các ngài sống các Mối Phúc và quy luật sống của cuộc phán xét chung thẩm. Chúa Giêsu nói ít lời đơn sơ, nhưng thực tế và hiệu lực đối với mọi người, vì Kitô giáo, trên hết là điều để thực hành. Và nếu nó cũng là một đối tượng nghiên cứu và suy tư, thì điều đó chỉ có giá trị khi nó giúp ta sống Phúc Âm trong cuộc sống hằng ngày. Tôi đề nghị thường xuyên đọc lại các bản văn Thánh Kinh quan trọng này, thường xuyên nhắc đến và cầu nguyện với các bản văn đó, cố gắng thực hiện chúng trong đời sống. Chúng sẽ giúp ích cho chúng ta, chúng sẽ làm cho chúng ta thực sự được hạnh phúc.
CHƯƠNG IV – VÀI ĐẶC TÍNH CỦA SỰ THÁNH THIỆN
TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
110. Trong khung cảnh to lớn của sự thánh thiện được trình bày nơi các Mối Phúc và đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu 25,31-46, tôi muốn tập hợp lại một vài đặc tính hay thái độ thiêng liêng, mà theo thiển ý của tôi, rất cần thiết nếu ta muốn hiểu lối sống mà Chúa mời gọi chúng ta. Tôi sẽ không dừng lại để giải thích các phương thế thánh hóa mà chúng ta đã biết như các phương pháp cầu nguyện, các Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, những hy sinh cá nhân, các hình thức sùng kính khác nhau, việc linh hướng và nhiều cách thế khác. Ở đây tôi chỉ nói về một vài khía cạnh của lời mời gọi nên thánh mà tôi hy vọng được nhìn nhận có ý nghĩa đặc biệt.
111. Các đặc tính mà tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả những tính chất của một khuôn mẫu thánh thiện, nhưng chúng là năm cách diễn tả tuyệt vời về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là rất quan trọng trước những nguy hiểm và giới hạn của nền văn hóa ngày nay. Trong nền văn hóa này chúng ta thấy biểu lộ nhiều lo âu, bồn chồn và hung bạo gây phân tán và suy nhược; tiêu cực và buồn thảm; sự lười lĩnh do chủ nghĩa hưởng thụ và ích kỷ; chủ nghĩa cá nhân; và tất cả những hình thức linh đạo thay thế không liên quan gì đến Thiên Chúa, đang tràn ngập thị trường tôn giáo hiện nay.
KIÊN TRÌ, NHẪN NẠI VÀ HIỀN LÀNH
112. Điều đầu tiên trong những tính chất lớn lao này là việc xây dựng nền móng vững chắc nơi Thiên Chúa, Đấng yêu thương và nâng đỡ chúng ta. Nhờ sức mạnh nội tâm này mà chúng ta có thể kiên trì chịu đựng giữa những nghịch cảnh, thăng trầm của cuộc sống, và cả những thù hận, phản bội, hay lỗi phạm nơi người khác. “Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta” (Rm 8,31). Đây là nguồn bình an ta thấy nơi thái độ sống của các thánh. Trong một thế giới hối hả, dễ đổi thay và hung hăng, nhờ sức mạnh nội tâm vững chắc như thế chúng ta có thể làm chứng cho sự thánh thiện nhờ kiên nhẫn và bền tâm làm việc thiện. Đó là sự trung tín bởi tình yêu, vì ai đặt tin tưởng nơi Chúa (pístis) thì có thể trung thành với anh em (pistós), người ấy không bỏ rơi anh em mình lúc hoạn nạn, không để họ đắm chìm trong lo âu phiền muộn, và vẫn đồng hành với anh em dù điều đó không mang lại được một thỏa mãn tức thời.
Bài này đã được xem 604 lần!