113. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Rôma đừng lấy ác báo ác (x. Rm 12,17), đừng tự mình báo oán (x. c. 19), và đừng để sự ác thắng được mình, nhưng hãy “lấy sự thiện mà thắng sự ác” (x. c. 21). Thái độ này không phải là dấu hiệu của sự yếu hèn nhưng là sức mạnh đích thực, vì chính Thiên Chúa “chậm giận nhưng sức mạnh của Người thật phi thường” (Nk 1,3). Lời Chúa cảnh tỉnh chúng ta “đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31).
114. Chúng ta cần chiến đấu và tỉnh táo trước các khuynh hướng hung hăng và vị kỷ của mình, không để chúng bắt rễ. “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Khi ở trong những tình cảnh cảm thấy quá sức chịu đựng, chúng ta luôn có thể bám lấy cái neo cầu nguyện, và ta sẽ được đưa trở lại trong vòng tay Thiên Chúa, gần suối nguồn bình an. “Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng trí anh em” (Pl 4,6-7).
115. Kitô hữu cũng có thể bị cuốn hút vào các mạng lưới ngôn ngữ bạo lực qua mạng internet và các diễn đàn khác nhau của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trong truyền thông Công giáo, người ta cũng có thể vượt quá giới hạn, đâu đó vẫn chứa chấp những lời lẽ phỉ báng và vu khống, và có vẻ như mọi chuẩn mực đạo đức và sự tôn trọng thanh danh người khác bị bỏ quên. Như vậy là có một sự phân cực nguy hiểm, bởi lẽ trên những trang mạng này xuất hiện những điều vốn không thể được chấp nhận trong cuộc sống công khai, và để tìm cách bù trừ cho những bất mãn riêng tư mà người ta trút thù hận lên kẻ khác. Điều đáng ngạc nhiên là đôi khi vì lo giữ những điều răn khác, người ta lại bỏ qua hoàn toàn điều răn thứ tám: “chớ làm chứng dối”, và họ làm mất thanh danh người khác cách không thương tiếc. Ở đây, ta thấy miệng lưỡi không kiểm soát là “thế giới của sự ác” và nó “đốt cháy toàn thể đời sống chúng ta, châm ngòi bằng chính ngọn lửa hỏa ngục” (x. Gc 3,6).
116. Sức mạnh nội tâm, vốn là công trình của ân sủng, sẽ giữ chúng ta không để bị cuốn đi bởi bạo lực đang tràn lan trong đời sống xã hội hiện nay, vì ân sủng dập tắt thói kiêu căng và làm con tim trở nên dịu hiền. Các thánh không phí sức phàn nàn về lỗi lầm của kẻ khác, họ có thể kềm giữ miệng lưỡi trước lỗi phạm của anh em, và tránh được ngôn ngữ bạo lực làm hạ giá và ngược đãi kẻ khác, vì các ngài coi mình không đáng phải cư xử thô bạo với kẻ khác, nhưng xem người khác hơn mình (x. Pl 2,3).
117. Thật không tốt khi chúng ta đứng trên cao mà nhìn xuống xét đoán anh em mình như những quan tòa hà khắc, coi họ thấp kém hơn mình và luôn tìm cách dạy bảo họ. Đây là một hình thức tinh vi của bạo lực.95 Thánh Gioan Thánh Giá đề ra một con đường khác: “Bạn hãy luôn muốn được mọi người dạy bảo mình, hơn là ham dạy bảo dù là người hèn kém nhất”.96 Và ngài còn khuyên thêm để tránh xa ma quỷ: “Hãy vui mừng trước sự tốt đẹp của người khác như thể của bạn, và mong muốn chân thành người khác được ưu tiên hơn bạn trong mọi sự. Như thế, bạn sẽ thắng được sự ác bằng sự thiện, xua đuổi được ma quỷ, và bạn sẽ có được niềm vui trong tâm hồn. Hãy cố gắng thực hành điều này đặc biệt với những người bạn cảm thấy khó thương nhất. Hãy biết rằng nếu bạn không rèn luyện theo cách này, bạn sẽ không đạt được đức ái thực sự hay đạt được bất cứ sự tiến bộ nào về nhân đức này”.97
118. Sự khiêm nhường chỉ có thể bén rễ trong tâm hồn ngang qua những sự hạ mình. Không có sự tự hạ sẽ không có khiêm nhường và thánh thiện. Nếu bạn không thể chịu đựng sỉ nhục và chịu hạ mình một chút nào đó, thì bạn không khiêm nhường và không ở trên nẻo đường thánh thiện. Sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho Hội Thánh đến từ sự tự hạ của Chúa Con. Ngài là con đường. Sự tự hạ làm cho bạn nên giống Chúa Giêsu, đó là phần thiết yếu của việc bắt chước Chúa Kitô: “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người” (1 Pr 2,21). Về phần mình, Người cho thấy sự khiêm hạ của Chúa Cha, Đấng tự hạ để đồng hành cùng dân Ngài, chịu đựng những sự bất trung và phàn nàn kêu ca của họ (x. Xh 34,6-9; Kn 11,23-12,2; Lc 6,36). Vì lý do này mà các Tông đồ, sau khi chịu sỉ nhục, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).
119. Ở đây tôi không chỉ nói về những hoàn cảnh tàn bạo của việc tử đạo, nhưng còn về những sự hạ mình hằng ngày của những người âm thầm chịu đựng để cứu vãn gia đình mình, hoặc những con người không thích khoe khoang mình, thích khen ngợi người khác hơn là ca tụng mình, thích chọn những việc thấp hèn, và ngay cả đôi khi sẵn lòng chịu sự bất công để dâng hy sinh lên Chúa. “Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Chúa ban” (1 Pr 2,20). Điều này không có nghĩa là ta bước đi với đôi mắt cứ nhìn xuống, không hề mở miệng và tránh né mọi người. Đôi khi, chính vì tự do đối với tính ích kỷ, mà người ta dám bày tỏ sự bất đồng một cách nhẹ nhàng, đòi hỏi công lý hay bảo vệ người yếu trước kẻ mạnh, ngay cả khi việc này có thể làm hại thanh danh của họ.
120. Tôi không nói việc hạ mình như thế là một điều thích thú, vì nếu thế có thể là bệnh khổ dâm (masochismo), nhưng đây là cách bắt chước Chúa Giêsu và lớn lên trong sự kết hợp với Người. Đó là điều mà con người không hiểu được theo lẽ tự nhiên, và thế gian cười nhạo kiểu quan niệm như thế. Nhưng đây là một ân sủng chúng ta cần cầu xin “Lạy Chúa, khi con bị sỉ nhục, xin giúp con cảm thấy rằng con đang bước theo dấu chân của Chúa”.
121. Để sống được điều đó ta cần có một con tim tràn đầy bình an của Đức Kitô, tự do không bị khống chế bởi tính hung hăng ngạo mạn. Chính sự bình an này, vốn là hoa trái của ân sủng, giúp ta duy trì niềm tín thác nội tâm và chịu đựng kiên trì trong việc thiện, “dù đi qua thung lũng âm u” (Tv 23,4) hay “dù cả một đạo quân vây đánh” (Tv 27,3). Đứng vững trong Chúa là Đá Tảng, chúng ta có thể hát lên: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4,8). Tóm lại, Đức Kitô “là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14) và Người đã đến “dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,79). Người đã nói với Thánh Faustina Kowalska rằng “nhân loại sẽ không có bình an cho tới khi biết quay về tín thác vào lòng thương xót của Ta”.98 Vì thế, chúng ta đừng để mình rơi vào cám dỗ tìm sự an toàn nơi thành công, nơi những thú vui phù phiếm, nơi của cải, nơi quyền lực trên kẻ khác và địa vị xã hội: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27).
NIỀM VUI VÀ TINH THẦN HÀI HƯỚC
122. Những gì chúng ta đã nói cho tới nay về sự thánh thiện của các thánh không hàm chứa sự rụt rè, buồn thảm, chua chát, u sầu, hay mang bộ mặt thê lương. Các thánh luôn vui vẻ và đầy tinh thần hài hước. Dù rất thực tế, các thánh vẫn chiếu tỏa một tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Làm Kitô hữu có nghĩa là “đầy hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “hoa quả thiết yếu của đức ái là niềm vui. Vì ai yêu thì vui mừng được kết hợp với người mình yêu […], đức ái mang lại niềm vui”.99 Chúng ta đã lãnh nhận món quà tuyệt vời là Lời Chúa, và đã ôm ấp Lời ấy “ngay giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban” (1 Tx 1,6). Nếu chúng ta để Chúa lôi kéo chúng ta ra khỏi vỏ ốc và biến đổi mình, chúng ta có thể làm như Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta: “Hãy vui lên trong Thiên Chúa, tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4,4).
123. Các tiên tri đã loan báo thời đại của Chúa Giêsu, thời mà chúng ta đang sống đây, như một mạc khải của niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!” (Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên thật mạnh mẽ! (Is 40,9). “Trời hãy hò reo, đất hãy nhảy múa, núi non hãy bật tiếng hò reo, vì Thiên Chúa ủi an dân Ngài. Ngài đã chọn và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is 49,13). “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng” (Dcr 9,9). Chúng ta cũng không được quên lời khích lệ của Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Thiên Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (8,10).
124. Khi nhận ra sự mới mẻ mà Đức Giêsu mang đến, Đức Maria đã cất tiếng reo vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng (Lc 1,47) và chính Đức Giêsu “đã hớn hở vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Lc 10,21). Khi Người đi qua, “toàn thể dân chúng vui mừng” (Lc 13,17). Sau khi Chúa phục sinh, bất cứ nơi nào các Tông đồ đặt chân đến, người ta đều “rất vui mừng” (Cv 8,8). Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. […] Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được” (Ga 16,20.22). “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
125. Những lúc khó khăn có thể xảy đến khi thánh giá xuất hiện, nhưng không gì có thể hủy diệt được niềm vui siêu nhiên, một niềm vui vốn có thể “thích ứng và thay đổi, nhưng luôn tồn tại ít nữa như là một tia sáng phát sinh từ niềm xác tín riêng rằng, sau tất cả, ta được thương yêu vô cùng”.100 Niềm vui này là một bảo đảm sâu xa, một niềm cậy trông tràn đầy an bình, đem đến cho ta niềm vui thỏa thiêng liêng mà thế gian không thể hiểu được.
126. Niềm vui Kitô giáo thường đi kèm với một cảm thức hài hước mà ta có thể thấy rõ, chẳng hạn nơi Thánh Tôma More, Thánh Vinh sơn Phaolô, Thánh Philiphê Nêri. Sự hài hước bệnh hoạn không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn” (Gv 11,10). Chúng ta lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa “để có thể hưởng dùng” (1 Tm 6,17), cho nên đôi khi buồn phiền có thể là dấu hiệu của sự vô ơn. Chúng ta có thể quá bận tâm đến chính mình đến nỗi không thể nhận ra những quà tặng của Thiên Chúa.101
127. Với tình yêu hiền phụ Thiên Chúa mời gọi chúng ta: “Con ơi, hãy làm cho đời con được tốt đẹp… Đừng từ chối không hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn chúng ta có thái độ tích cực, biết ơn và không quá phức tạp: “Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui hưởng… Con người do Thiên Chúa làm nên, vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co” (Gv 7,14.29). Dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào, ta hãy giữ một tinh thần uyển chuyển và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học biết bằng lòng với những gì mình có” (Pl 4,11). Đó là điều Thánh Phanxicô Assisi đã sống, ngài có thể cảm thấy tràn đầy lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì khô, hay vui mừng hát ca tôn vinh Thiên Chúa chỉ vì một làn gió nhẹ làm mát khuôn mặt ngài.
128. Điều tôi đang nói đây không phải là niềm vui theo kinh nghiệm của một số nền văn hóa ngày nay chạy theo chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa tiêu thụ thật ra chỉ làm cho con tim ta ra nặng nề. Nó có thể mang lại những vui thú mau qua lúc này lúc khác, nhưng không phải là niềm vui. Ở đây tôi đang nói về một niềm hoan hỉ được sống trong mối hiệp thông, biết chia sẻ và được chia sẻ, vì “cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35) và “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9,7). Tình yêu huynh đệ làm gia tăng niềm vui nơi chúng ta, vì nó có thể làm cho chúng ta vui mừng về điều tốt lành của người khác: “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh” (2 Cr 13,9). Ngược lại, nếu chúng ta “bận tâm trên hết đến nhu cầu của mình, thì chúng ta đã tự kết án mình sống không niềm vui”.102
BẠO DẠN VÀ SAY MÊ
129. Thánh thiện đồng thời cũng là parresía, nghĩa là sự bạo dạn, là một thôi thúc loan báo Tin Mừng và để lại dấu ấn trong thế giới. Để giúp chúng ta làm điều này, chính Chúa Giêsu đến gặp gỡ và nói với chúng ta một lần nữa, một cách trầm tĩnh nhưng mạnh mẽ: “Đừng sợ” (Mc 6,50). “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Những lời này thúc giục chúng ta lên đường và phục vụ một cách hết sức bạo dạn, như Chúa Thánh Thần đã khơi lên nơi các Tông đồ, thúc đẩy họ loan báo Chúa Giêsu Kitô. Sự bạo dạn, nhiệt tâm, tự do lên tiếng, niềm hăng say tông đồ, tất cả những điều này được bao hàm trong từ parresía. Thánh Kinh cũng dùng từ này để mô tả sự tự do của một đời sống mở ra với Thiên Chúa và với tha nhân (x. Cv 4,29; 9,28; 28,31; 2 Cr 3,12; Ep 3,12; Dt 3,6; 10,19).
130. Chân phước Phaolô VI, khi bàn về những trở ngại đối với việc loan báo Tin Mừng, đã nói về việc thiếu hăng say (parresía) và đây là trở ngại “nghiêm trọng hơn bất cứ điều nào khác vì xuất phát từ bên trong”.103 Đã bao lần chúng ta bị cám dỗ muốn thoải mái giữ thuyền trên bờ! Nhưng Chúa mời gọi chúng ta ra chỗ nước sâu mà thả lưới (x. Lc 5,4). Người mời gọi chúng ta dâng hiến đời mình để phục vụ Người. Bám vào Người, chúng ta được can đảm đem mọi đặc sủng ra phục vụ người khác. Chúng ta có thể cảm thấy được tình yêu Chúa thúc bách (x. 2 Cr 5,14) và nói như Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
131. Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu. Lòng trắc ẩn sâu xa của Người không tập chú vào mình, không làm mình tê liệt, nhút nhát, hay ngượng ngùng như thường xảy ra với chúng ta, nhưng hoàn toàn ngược lại. Lòng trắc ẩn ấy thúc đẩy Người mạnh bạo đi ra loan báo và sai người khác đi thực thi sứ vụ chữa lành và giải thoát. Chúng ta hãy nhìn nhận mình yếu hèn, nhưng hãy để cho Chúa Giêsu nắm lấy và sai chúng ta đi thực thi sứ vụ. Chúng ta yếu hèn, nhưng chúng ta nắm giữ một kho tàng làm cho mình lớn mạnh hơn và làm cho những ai đón nhận kho tàng ấy cũng trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn. Sự bạo dạn và lòng quả cảm tông đồ là phần thiết yếu của sứ mạng.
132. Parresía là dấu ấn của Chúa Thánh Thần, là điều chứng thực cho lời chúng ta loan báo. Đó là bảo chứng hân hoan đưa ta tới vinh quang trong Tin Mừng mà ta loan báo. Đó là niềm tin tưởng không lay chuyển đặt nơi vị Chứng Nhân trung tín, là Đấng bảo đảm cho chúng ta rằng không gì có thể “tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8,39).
133. Chúng ta cần sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, kẻo chúng ta bị tê liệt vì sợ hãi và thận trọng thái quá, kẻo chúng ta chỉ quen sống trong phạm vi an toàn. Chúng ta hãy nhớ rằng những không gian đóng kín rồi sẽ trở nên ẩm mốc và dễ gây bệnh. Khi các Tông đồ bị cám dỗ để cho mình bị tê liệt bởi nỗi sợ hãi và nguy hiểm, các ngài đã họp nhau cầu nguyện để xin ơn parresía: “Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn” (Cv 4,29). Và câu trả lời là, họ cầu nguyện xong, thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,31).
134. Giống như tiên tri Giôna, chúng ta luôn bị một cám dỗ tiềm tàng là trốn tránh và đi tìm một nơi an trú. Nơi trú ẩn an toàn ấy có nhiều tên: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, việc thu mình trong một thế giới nhỏ hẹp, nghiện ngập, sống theo lề thói cứng cỏi, định kiến từ chối những cách tân, chủ nghĩa giáo điều, óc hoài cổ, bi quan, ẩn mình đàng sau luật lệ và quy tắc. Có khi chúng ta cưỡng lại việc rời bỏ một cách thức làm việc quen thuộc và tiện lợi. Tuy nhiên, các thách đố xuất hiện có thể giống như cơn bão, con cá voi ấy, con sâu làm héo cây thầu dầu ấy, hay cơn gió và cái nắng chói chang ấy đã thiêu đốt cái đầu trần của Giôna. Và cũng như trường hợp của Giôna, những thách đố này có thể mang chúng ta trở về với Thiên Chúa trìu mến, Đấng mời gọi chúng ta lên đường trong một hành trình liên tục và luôn mới mẻ.
Bài này đã được xem 614 lần!