135. Thiên Chúa luôn luôn mới mẻ. Ngài không ngừng thúc đẩy chúng ta bắt đầu lại và vượt quá những gì quen thuộc để đi đến những vùng ngoại vi và đi đến tận cùng chân trời. Ngài đưa chúng ta tới những nơi nhân loại bị thương tích nhiều nhất, nơi mà con người, ẩn dưới cái vẻ bên ngoài ổn thỏa, vẫn tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống. Thiên Chúa không sợ hãi! Ngài không biết sợ! Ngài luôn đi xa hơn mọi kế hoạch của chúng ta và không sợ những vùng ngoại vi. Chính Ngài đã trở nên một vùng ngoại biên (x. Pl 2,6-8; Ga 1,14). Vì thế, nếu chúng ta dám đi tới những vùng ngoại biên, chúng ta sẽ gặp Ngài ở đó. Ngài đã có đó rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta, Người luôn có đó, trong trái tim người anh em chúng ta, trong thân xác bị thương tích của họ, trong cuộc sống gian truân của họ và trong linh hồn tăm tối của họ. Người đã có đó.
136. Quả thực chúng ta cần mở trái tim cho Chúa Giêsu, vì Người đứng ngoài gõ cửa và gọi (x. Kh 3,20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi liệu cũng có thể Chúa Giêsu đã ở trong đó rồi và Người gõ cửa lòng ta để xin chúng ta mở cho Người ra ngoài, thoát khỏi tình trạng vị kỷ hôi thối của chúng ta hay chăng. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu “rảo qua các thành phố và làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 8,1). Cả sau khi phục sinh, khi các môn đệ ra đi mọi hướng, “Chúa cùng hoạt động với họ” (x. Mc 16,20). Đó là hệ quả của một sự gặp gỡ đích thực.
137. Thói quen có sức rất hấp dẫn và nó nói với chúng ta rằng: cố gắng thay đổi không có ý nghĩa gì cả, trước hoàn cảnh như thế chúng ta chẳng làm được gì, và sự vật xưa nay vẫn thế, nhưng chúng ta vẫn sống đấy thôi. Do thói quen mà chúng ta không còn đứng lên đương đầu với sự dữ nữa và ta cho phép “mọi sự cứ như vậy”, hay như một số người đã quyết định chúng phải như vậy. Nhưng chúng ta hãy để cho Chúa đến đánh thức, lay tỉnh chúng ta khỏi giấc ngủ mê, giải thoát ta khỏi sự ì ạch của mình! Chúng ta hãy xét lại cách thế chúng ta quen làm việc, chúng ta hãy mở mắt và mở tai, và nhất là mở con tim để lòng mình được khuấy động bởi những gì đang diễn ra xung quanh ta cũng như bởi Lời hằng sống và quyền năng của Chúa Phục sinh.
138. Chúng ta được thôi thúc để hành động theo gương của biết bao linh mục, tu sĩ, và giáo dân, những người dấn thân cho việc loan báo Tin Mừng và phục vụ con người với lòng trung thành lớn lao, nhiều khi còn liều mạng sống, và chắc chắn họ phải hy sinh một cuộc sống tiện nghi dễ chịu. Chứng tá của họ nhắc chúng ta rằng Hội Thánh cần, không phải những quan chức bàn giấy cho bằng là, những thừa sai đầy nhiệt huyết, hết lòng chia sẻ đời sống thực. Các Thánh làm ta kinh ngạc và băn khoăn vì cuộc sống của các ngài thúc bách chúng ta từ bỏ cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt và mê ngủ.
139. Ta hãy xin ơn Chúa để đừng do dự khi được Thánh Thần đòi hỏi ta dấn bước. Chúng ta hãy xin ơn được can đảm như các Tông đồ để chia sẻ Tin Mừng với người khác và không biến đời Kitô hữu của mình thành một viện bảo tàng những ký ức. Trong mọi hoàn cảnh, hãy để Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiêm ngắm lịch sử trong viễn tượng Chúa Giêsu Phục sinh. Nhờ đó, Hội Thánh sẽ không đứng im bất động, nhưng có thể đi tới, đón nhận những điều ngạc nhiên của Chúa.
TRONG CỘNG ĐOÀN
140. Khi sống cô lập xa cách người khác, thật khó để chúng ta chiến đấu chống lại nhục dục, chống lại các cạm bẫy, các cám dỗ của ma quỷ, và sự ích kỷ của thế gian. Bị tấn công dồn dập bởi quá nhiều lực lôi kéo, nếu chúng ta quá cô độc, ta sẽ dễ mất cảm thức về thực tại và sự trong sáng nội tâm, và dễ đầu hàng.
141. Nên thánh là một hành trình trong cộng đoàn, sống cùng với những người khác. Chúng ta thấy điều này nơi một vài cộng đoàn thánh thiện. Đôi khi Giáo Hội đã tuyên thánh trọn cả cộng đoàn đã sống Tin Mừng một cách anh hùng hay đã dâng hiến cho Thiên Chúa sự sống của tất cả các thành viên. Chẳng hạn, chúng ta có thể nghĩ tới bảy vị sáng lập thánh thiện của Dòng Tôi Tớ Đức Maria, bảy Chân phước nữ tu thuộc đan viện đầu tiên của Dòng Thăm Viếng ở Madrid, Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo ở Nhật Bản, Thánh Andrew Taegon và các bạn tử đạo ở Triều Tiên, hay Thánh Rocco González và Alonso Rodríguez và các bạn tử đạo ở Nam Mỹ. Chúng ta cũng nhớ đến các chứng tá gần đây của các đan sĩ Trappist ở Tibhirine (Algeria), những người đã được chuẩn bị trong tư cách một cộng đoàn tử đạo. Cũng thế, có nhiều cặp vợ chồng thánh thiện, trong đó mỗi người trở thành một phương tiện mà Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hay làm việc cùng với những người khác chắc chắn là một con đường tăng trưởng thiêng liêng. Thánh Gioan Thánh Giá đã nói với một trong các môn đệ của ngài: “Con sống với những người khác là để được họ uốn nắn và thử thách về đàng nhân đức”.104
142. Cộng đoàn được mời gọi kiến tạo “một không gian đối thần trong đó ta có thể sống kinh nghiệm sự hiện diện huyền nhiệm của Chúa Phục sinh”.105 Việc chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể với nhau thúc đẩy tình huynh đệ và làm cho chúng ta dần dần trở thành một cộng đoàn thánh thiện và truyền giáo. Điều đó cũng làm nảy sinh những kinh nghiệm thần bí đích thực chia sẻ chung với nhau, như trường hợp của thánh Biển Đức và thánh Scholastica, hay như kinh nghiệm thiêng liêng tuyệt vời được chia sẻ bởi thánh Augustinô và Mẹ ngài là thánh Mônica. “Khi gần tới ngày mẹ con xa lìa cõi đời này, ngày mà Chúa biết rõ, còn chúng con thì không, đã xảy ra một chuyện mà con tin là do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của Chúa: lúc đó chỉ có mẹ và con, đứng tựa cửa sổ nhìn ra thửa vườn […]. Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng suối từ suối nguồn của Chúa, cội nguồn sự sống xuất phát từ nơi Chúa […]. Và khi chúng con nói và khát khao về lẽ khôn ngoan ấy, chúng con đã chạm được một phần nào đó với toàn lực của tâm trí mình […] sự sống vĩnh cửu có thể giống một khoảnh khắc huệ trí như thế mà hiện giờ chúng con vẫn khát khao”.106
143. Tuy nhiên, những kinh nghiệm như thế không thường xảy ra, và cũng không phải là điều quan trọng nhất. Đời sống cộng đoàn, dù là trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn tu trì hay bất cứ cộng đoàn nào khác, được hình thành bởi bao điều nhỏ nhặt thường ngày. Đó thực sự là trường hợp của cộng đoàn thánh, được hợp thành bởi Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, ở đó phản ánh một cách mẫu mực vẻ đẹp của sự hiệp thông Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó cũng là đời sống mà Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ của Ngài và với dân chúng.
144. Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ chú ý đến những chi tiết:
Chi tiết nhỏ về chuyện hết rượu tại một tiệc cưới; Chi tiết nhỏ về chuyện một con chiên lạc mất;
Chi tiết nhỏ về việc người goá phụ dâng cúng hai đồng xu nhỏ;
Chi tiết nhỏ về việc mang dầu dự trữ cho đèn, phòng trường hợp chàng rể đến chậm;
Chi tiết nhỏ về việc hỏi xem các môn đệ có bao nhiêu ổ bánh;
Chi tiết nhỏ về việc nhóm bếp lửa và nướng cá khi Người chờ đợi các môn đệ lúc tinh sương.
145. Một cộng đoàn biết trân trọng những chi tiết nhỏ của tình yêu,107 nơi đó các thành viên chăm sóc lẫn nhau và tạo ra một môi trường mở và đầy tinh thần Phúc âm, là nơi Chúa Phục Sinh hiện diện, thánh hóa cộng đoàn theo kế hoạch của Chúa Cha. Có đôi khi, nhờ món quà tình yêu của Chúa giữa những chi tiết nho nhỏ này, chúng ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm an ủi. “Một buổi tối mùa đông tôi đang làm việc bổn phận nhỏ bé của tôi như thường lệ […], thình lình, tôi nghe thấy từ xa tiếng đàn du dương. Rồi tôi thấy thoáng hiện một phòng khách sáng trưng, trang hoàng rực rỡ, đầy các quý cô với trang phục quý phái đang trò chuyện và trao cho nhau những lời khen ngợi đủ kiểu và những lời tán tụng thế gian. Rồi tôi quay lại nhìn người chị em đau ốm nghèo nàn mà tôi đang giúp đỡ. Ở đây, thay cho điệu nhạc du dương, thỉnh thoảng tôi chỉ nghe thấy những tiếng than thở của chị ấy […]. Tôi không thể diễn tả được điều đã xảy ra trong tâm hồn tôi, điều tôi biết là Chúa đã soi sáng tâm hồn tôi bằng những tia sáng chân lý vượt quá vẻ huy hoàng mà u ám của những lễ hội trần thế, đến nỗi tôi không thể tin đó là hạnh phúc của mình”.108
146. Trái ngược với chủ nghĩa cá nhân hưởng thụ vốn có khuynh hướng cô lập chúng ta trong việc tìm kiếm hưởng thụ phúc lợi cho mình tách biệt khỏi người khác, con đường nên thánh của chúng ta chỉ có thể làm cho mình mỗi lúc một gắn bó chặt chẽ hơn với ước muốn của Chúa Giêsu: “Xin cho tất cả được nên một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha” (Ga 17,21).
TRONG CẦU NGUYỆN LIÊN LỈ
147. Cuối cùng, dù có vẻ hiển nhiên, chúng ta nên nhớ rằng sự thánh thiện hệ tại ở việc thường xuyên mở lòng ra với Đấng siêu việt, điều đó được diễn tả trong việc cầu nguyện và thờ phượng. Một vị thánh là người có tinh thần cầu nguyện và khát khao thông giao với Thiên Chúa. Thánh nhân là người không chịu được sự ngột ngạt của thế giới nội tại khép kín chật hẹp này, và giữa những nỗ lực dâng hiến, ngài khao khát Chúa, ngài ra khỏi chính mình trong việc ca tụng và mở rộng biên giới của bản thân qua việc chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin vào sự thánh thiện mà không có cầu nguyện, dù đó là việc cầu nguyện không nhất thiết phải dài hoặc gắn với những cảm xúc mãnh liệt.
148. Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta “cố gắng thường xuyên sống trong sự hiện diện với Thiên Chúa, dù là hiện diện thực, hay tưởng tượng, hoặc kết hiệp, theo mức độ mà công việc của bạn cho phép”.109 Sau cùng, niềm khao khát Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn phải được biểu lộ cách nào đó trong cuộc sống hằng ngày: “Hãy chuyên cần cầu nguyện, không bỏ lơi cả khi đang bận bịu với những việc bên ngoài. Dù bạn ăn uống, chuyện trò với người khác hoặc với người đời, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy luôn luôn ước ao Thiên Chúa và gắn bó tâm hồn với Ngài”.110
149. Tuy nhiên, để được như vậy, cũng cần có những khoảng thời gian chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, một mình với Chúa thôi. Đối với Thánh Têrêsa Avila, cầu nguyện “là một tương giao thân tình bằng hữu, và chuyện trò thường xuyên một mình với Đấng mà chúng ta biết Ngài yêu thương chúng ta”.111 Tôi muốn nhấn mạnh rằng điều này đúng không chỉ cho một số ít người được đặc ân, mà còn cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều cần sự thinh lặng này, sự thinh lặng tràn đầy sự hiện diện của Đấng ta tôn thờ”.112 Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là sự đáp trả của một con tim mở ra để gặp gỡ Thiên Chúa diện đối diện, trong đó mọi tiếng nói đều lặng thinh để có thể nghe được tiếng êm ái của Chúa giữa thinh không.
150. Trong sự thinh lặng ấy, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể phân định những nẻo đường nên thánh mà Chúa mời gọi mình. Nếu không, bất cứ quyết định nào của chúng ta cũng chỉ là các vật trang sức bề ngoài, thay vì đề cao Tin Mừng trong đời sống chúng ta, chúng lại che lấp hoặc nhấn chìm Tin Mừng. Đối với mỗi môn đệ, điều chính yếu là phải ở với Thầy để lắng nghe Lời Người và luôn học với Người. Nếu chúng ta không lắng nghe, tất cả những lời lẽ của chúng ta sẽ chẳng là gì ngoài những lời ba hoa vô ích.
151. Chúng ta cần nhớ rằng “việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, sẽ phục hồi nhân tính của chúng ta, ngay cả khi nhân tính ấy bị tan tác bởi những vất vả của cuộc đời hoặc bị ghi dấu bởi tội lỗi. Chúng ta không được làm suy giảm quyền năng của dung nhan Đức Kitô”.113 Vì thế, tôi xin hỏi các bạn: Có những giây phút nào bạn thinh lặng đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, những lúc bạn thư thái ở với Người, và để Người nhìn ngắm bạn hay không? Bạn có để ngọn lửa của Người cháy lên trong lòng mình không? Nếu không để Người sưởi ấm bạn bằng tình yêu và sự dịu dàng của Người, bạn sẽ không có lửa, và như thế làm sao bạn có thể đốt nóng trái tim người khác bằng chứng tá và lời nói của bạn? Và nếu trước dung nhan của Đức Kitô bạn vẫn cảm thấy không thể được chữa lành và biến đổi, thì hãy bước vào Trái Tim của Chúa, bước vào những vết thương của Người, vì đó là chỗ của Lòng Chúa Xót Thương.114
152. Nhưng tôi xin đừng bao giờ coi sự thinh lặng cầu nguyện là một hình thức trốn tránh và chối bỏ thế giới xung quanh mình. Có một vị khách hành hương người Nga, là người đã không ngừng cầu nguyện, nói rằng việc cầu nguyện không tách mình ra khỏi những thực tại bên ngoài: “Nếu tôi tình cờ gặp ai đó, bất kể là người nào, ai cũng đều tử tế với tôi như thể họ là người thân trong gia đình. […] Tôi không chỉ cảm thấy vui trong tâm hồn, mà cả thế giới bên ngoài đối với tôi dường như cũng tươi đẹp và đáng yêu”.115
153. Lịch sử cũng không biến mất. Cầu nguyện, chính vì được nuôi dưỡng bằng hồng ân của Thiên Chúa đổ tràn vào đời sống chúng ta, nên nó luôn được ghi dấu bằng sự hồi tưởng. Hồi tưởng về các công trình của Thiên Chúa là cơ sở của kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Nếu Thiên Chúa đã muốn đi vào lịch sử, thì việc cầu nguyện được đan dệt bởi các ký ức. Chúng ta nhớ không những về Lời mạc khải, mà còn về cuộc sống của chúng ta, cuộc sống của những người khác, và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội Thánh của Người. Đó là việc nhớ lại với lòng biết ơn mà thánh Inhaxiô Loyola đã đề cập đến trong bài “Chiêm niệm để được Tình yêu”,116 khi ngài xin chúng ta ý thức về tất cả những phúc lành mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa. Hãy nghĩ về lịch sử đời mình khi bạn cầu nguyện, ở đó bạn sẽ gặp thấy rất nhiều lòng thương xót. Đồng thời điều này cũng giúp bạn ý thức hơn việc Chúa luôn nghĩ đến bạn và Ngài không bao giờ quên bạn. Vì vậy, thật là ý nghĩa khi xin Ngài soi sáng những chi tiết nhỏ nhất của đời mình, vì Ngài thấy rõ mọi sự.
154. Cầu nguyện khẩn cầu là một diễn tả của một tâm hồn tín thác vào Thiên Chúa và biết rằng tự mình không thể làm gì được. Trong đời sống của Dân trung tín của Thiên Chúa chúng ta thấy có nhiều lời khẩn cầu phát xuất từ lòng yêu mến tràn đầy niềm tin và lòng cậy trông sâu xa. Chúng ta đừng coi thường lời cầu nguyện xin ơn, vốn là lời cầu rất thường làm ta an tâm và giúp ta tiếp tục chiến đấu kiên trì trong hy vọng. Lời cầu nguyện chuyển cầu có giá trị đặc biệt, vì đó là một hành động tín thác vào Thiên Chúa, đồng thời diễn tả tình yêu đối với tha nhân. Có những người, bởi một thiên kiến duy linh nào đó, nghĩ rằng cầu nguyện phải là việc chiêm niệm Thiên Chúa thuần túy, không để bị phân tâm, như thể nghĩ đến tên tuổi và khuôn mặt của anh em cũng là một rầy rà cần phải tránh. Trái lại, thực ra lời cầu nguyện của chúng ta sẽ càng làm vui lòng Chúa và làm ta nên thánh hơn nếu, qua lời cầu nguyện chuyển cầu đó, ta cố gắng thực hành điều răn hai mặt mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Chuyển cầu diễn tả mối quan tâm huynh đệ của chúng ta đối với anh em, vì trong đó, chúng ta có thể ôm lấy cuộc sống, những lo âu bấn loạn của họ và các giấc mơ cao quý nhất của họ. Đối với những người chuyên chăm chuyển cầu cách quảng đại cho người khác, chúng ta có thể áp dụng lời Thánh Kinh sau: “Đây là người yêu mến anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân chúng” (2 Mcb 15,14).
155. Nếu thật sự chúng ta nhìn nhận Thiên Chúa hiện hữu, thì chúng ta không thể không thờ phượng Ngài, có khi với lòng đầy thán phục trong lặng lẽ, hoặc có khi ca tụng Ngài bằng những lời hoan ca. Như thế, chúng ta diễn tả kinh nghiệm của Chân phước Charles de Foucauld, khi ngài nói: “Ngay khi tôi tin có Thiên Chúa, tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài”.117 Trong đời sống của Dân Chúa lữ hành, có nhiều cử chỉ thờ phượng đơn sơ thuần khiết, chẳng hạn như khi “ánh mắt của người khách hành hương hướng nhìn về một hình ảnh biểu lộ tình thương mến và sự gần gũi của Thiên Chúa. Yêu thương thì biết dừng lại, chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức mầu nhiệm ấy trong thinh lặng”.118
Bài này đã được xem 616 lần!