168. Về yếu tố luân lý trong huấn giáo, là cái giúp phát huy sự tăng trưởng trung thành với lối sống phúc âm, cần liên tục nhấn mạnh sự hấp dẫn và lý tưởng của một đời sống khôn ngoan, hoàn thành và làm phong phú bản thân. Dưới ánh sáng của sứ điệp tích cực ấy, chúng ta có thể hiểu rõ hơn tại sao mình xa tránh những điều xấu gây nguy hại cho đời sống ấy. Thay vì có thái độ của những chuyên gia chỉ tiên đoán những tai hoạ, hay những quan toà khắc nghiệt luôn tìm cách nhổ tận gốc mọi mối đe dọa hay hành vi sai trái, chúng ta phải tỏ ra là những sứ giả hân hoan về những đề nghị đầy thách thức, những người bảo vệ cái tốt và cái đẹp rạng ngời trong một đời sống trung thành với Tin Mừng.
Đồng hành với cá nhân trong các bước tăng trưởng
169. Trong một nền văn hoá đầy nghịch lý giữa sự đau khổ vì không được ai biết đến và đồng thời bị ám ảnh vì các tình tiết trong cuộc đời của những người khác khiến chúng ta rơi vào thái độ tò mò bệnh hoạn và đáng xấu hổ, Hội Thánh phải nhìn người khác bằng đôi mắt thân tình và thiện cảm hơn. Trong thế giới chúng ta, các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể hiện thực hoá hương thơm sự gần gũi và cái nhìn thân mật của Đức Kitô. Hội Thánh sẽ phải dẫn đưa mọi người – linh mục, tu sĩ, và giáo dân – vào trong “nghệ thuật đồng hành” này, nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác (xem Xh 3:5). Bước chân đồng hành này phải có nhịp đều và vững vàng, phản ánh thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của chúng ta, giúp chữa lành và khích lệ sự tăng trưởng trong đời sống Kitô giáo.
170. Mặc dù nghe có vẻ hiển nhiên, sự đồng hành thiêng liêng phải dẫn đưa người khác đến gần Thiên Chúa hơn, nơi Người chúng ta đạt tới tự do đích thực. Một số người nghĩ họ có tự do nếu tránh được Thiên Chúa; nhưng họ không thấy được rằng họ vẫn đang là những người mồ côi, cô độc, vô gia cư. Họ không còn là những người lữ hành, nhưng trở thành những nạn nhân trôi dạt bồng bềnh và không bao giờ đi đến đâu. Đồng hành với họ sẽ phản tác dụng nếu sự đồng hành này chỉ là một trị liệu pháp hỗ trợ sự tự mãn của họ và không còn là một cuộc lữ hành với Đức Kitô để đến với Chúa Cha.
171. Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta cần những người nam người nữ biết dựa trên kinh nghiệm bản thân trong việc đồng hành với người khác, những người thành thạo trong các tiến trình đòi hỏi sự thận trọng, cảm thông, kiên nhẫn và ngoan ngoãn vâng nghe Chúa Thánh Thần, để họ có thể bảo vệ chiên khỏi sói dữ làm tan tác đàn chiên. Chúng ta cần phát triển nghệ thuật lắng nghe, chứ không chỉ là nghe suông. Trong lãnh vực truyền thông, lắng nghe là sự mở lòng để có được thái độ gần gũi mà thiếu nó thì không thể có sự gặp gỡ thiêng liêng. Lắng nghe giúp chúng ta tìm ra cử chỉ và lời nói thích hợp để chứng tỏ chúng ta không chỉ là những khách qua đường. Chỉ khi có thái độ lắng nghe với lòng tôn trọng và cảm thông, chúng ta mới có thể bước vào con đường tăng trưởng đích thực và đánh thức một khát vọng về lý tưởng Kitô giáo: ước muốn đáp lại trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và làm cho những gì Ngài đã gieo trong cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả. Nhưng điều này luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn của người biết rõ điều mà Thánh Tôma Aquino từng nói: ai cũng có thể có ân sủng và đức ái, nhưng họ do dự trong việc thực thi các nhân đức bởi vì những “xu hướng trái ngược” dai dẳng của họ.[133] Nói khác đi, tính duy nhất hữu cơ của các nhân đức luôn luôn tồn tại một cách tất yếu in habitu (“trong thói quen”), mặc dù các hoàn cảnh chi phối khác nhau có thể ngăn cản các hoạt động của các thói quen nhân đức này. Thế nên cần có “một khoa sư phạm dẫn đưa người ta từng bước một tới sự lãnh hội đầy đủ mầu nhiệm”.[134] Việc đạt đến một mức độ trưởng thành mà ở đó các cá nhân có thể làm các quyết định tự do và có trách nhiệm cần nhiều thời gian và kiên nhẫn. Như Chân Phước Peter Faber thường nói: “Thời gian là sứ giả của Thiên Chúa”.
172. Ai đồng hành với người khác cần hiểu rằng mỗi tình huống của một cá nhân trước mặt Chúa và đời sống trong ân sủng của họ là những mầu nhiệm mà không một ai có thể hiểu đầy đủ từ bên ngoài. Tin Mừng dạy chúng ta sửa lỗi cho người khác và giúp họ lớn lên dựa trên việc nhìn nhận sự xấu xa của các hành động của họ (xem Mt 18:15), nhưng không phê phán về trách nhiệm và sự có tội của họ (xem Mt 7:1; Lc 6:37). Một số người giỏi trong việc đồng hành này không đầu hàng trước những thất bại hay những nỗi sợ hãi. Họ mời gọi những người khác sẵn sàng để mình được chữa lành, vác giường lên, ôm ấp thập giá, bỏ mọi sự lại phía sau và luôn luôn tiếp tục lên đường để loan Tin Mừng. Kinh nghiệm bản thân của chúng ta khi được người khác đồng hành và nâng đỡ, và sự mở lòng của chúng ta cho người đồng hành với mình, sẽ dạy chúng ta biết kiên nhẫn và cảm thông với người khác, và tìm ra đúng con đường để chinh phục sự tin tưởng, sự mở lòng và thái độ sẵn sàng lớn lên.
173. Sự đồng hành thiêng liêng chân chính luôn luôn bắt đầu và phát triển trong lãnh vực phục vụ sứ mạng truyền giáo. Mối quan hệ giữa Thánh Phaolô với Timôthê và Titô là một ví dụ điển hình về sự đồng hành và đào luyện này trong hoạt động tông đồ. Khi giao cho họ nhiệm vụ ở lại tại mỗi thành phố để “hoàn thành công việc tổ chức” (Tt 1:5; xem 1 Tm 1:3-5), Thánh Phaolô cũng cung cấp cho họ những qui tắc cho đời sống cá nhân và hoạt động mục vụ của họ. Cách làm này rõ ràng khác hẳn mọi kiểu đồng hành can thiệp hay tự thể hiện độc lập. Các môn đệ truyền giáo đồng hành với các môn đệ truyền giáo.
Tập trung vào Lời Chúa
174. Không chỉ bài giảng phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa. Mọi việc loan báo Tin Mừng cũng phải dựa trên lời ấy, phải lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành và làm chứng cho lời ấy. Kinh Thánh chính là nguồn mạch của việc loan báo Tin Mừng. Do đó, chúng ta cần không ngừng được huấn luyện trong việc nghe lời Chúa. Hội Thánh không loan báo Tin Mừng nếu chính mình không được nghe Tin Mừng. Lời Chúa thiết yếu phải “không ngừng được đặt một cách đầy đủ hơn vào tâm điểm của mọi hoạt động của Hội Thánh”.[135] Lời Chúa khi được lắng nghe và cử hành, trước hết trong Thánh Thể, sẽ nuôi dưỡng và kiện cường tâm hồn các Kitô hữu, giúp họ cống hiến một chứng tá đích thực cho Tin Mừng trong đời sống hằng ngày. Chúng ta từ lâu đã vượt qua được sự đối chọi xưa kia giữa lời và bí tích. Việc giảng lời sống động và hiệu quả có tác dụng chuẩn bị cho việc lãnh nhận bí tích, và lời đạt được hiệu quả tối đa trong bí tích.
175. Việc học hỏi Kinh Thánh phải là một cánh cửa rộng mở cho mọi tín hữu.[136] Nhất thiết lời mặc khải phải triệt để làm cho việc dạy giáo lý và mọi cố gắng truyền thụ đức tin của chúng ta trở nên phong phú.[137] Loan báo Tin Mừng đòi hỏi sự thân mật với lời Chúa, nó kêu gọi các giáo phận, giáo xứ và các hiệp hội Công Giáo tổ chức các cuộc học hỏi nghiêm túc và thường xuyên về Kinh Thánh, đồng thời khuyến khích các cá nhân và cộng đoàn đọc Kinh Thánh với tâm tình cầu nguyện.[138] Chúng ta không tìm kiếm Thiên Chúa một cách mò mẫm, hay chờ đợi Ngài nói với chúng ta trước, bởi vì “Thiên Chúa đã nói với chúng ta rồi, và không có gì chúng ta cần biết mà Ngài đã không mặc khải cho chúng ta”.[139] Chúng ta hãy đón nhận kho tàng siêu vời này của lời mặc khải.
CHƯƠNG BỐN – CHIỀU KÍCH XÃ HỘI CỦA VIỆC LOAN BÁO
TIN MỪNG
176. Loan báo Tin Mừng là làm cho Vương Quốc Thiên Chúa hiện diện trong thế giới chúng ta. Thế nhưng “mọi định nghĩa cục bộ hay manh mún nào với tham vọng diễn tả tất cả thực tại loan báo Tin Mừng trong sự phong phú, phức tạp và năng động của nó đều có nguy cơ làm cho nó trở nên nghèo nàn và thậm chí xuyên tạc nó”.[140] Giờ đây tôi muốn chia sẻ mối quan tâm của mình về chiều kích xã hội của việc loan báo Tin Mừng, chính là vì nếu chiều kích này không được hiểu một cách đúng đắn, thì luôn luôn có nguy cơ xuyên tạc ý nghĩa đích thực và trọn vẹn của sứ mạng loan báo Tin Mừng.
I. TÁC ĐỘNG CỦA LỜI RAO GIẢNG CƠ BẢN ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI
177. Lời rao giảng cơ bản (kerygma) có một nội dung xã hội rõ rệt: ở tâm điểm của Tin Mừng là đời sống cộng đồng và sự tham dự với những người khác. Nội dung của lời rao giảng ban đầu này có một hệ quả đạo đức trực tiếp được qui vào đức ái.
Tuyên xưng đức tin và dấn thân xã hội
178. Tin vào một người Cha yêu thương mọi người với một tình yêu vô biên có nghĩa là nhận ra rằng “qua đó Người ban cho họ một phẩm giá vô hạn”.[141] Tin rằng Con Thiên Chúa mặc lấy xác thịt nhân loại có nghĩa là mỗi con người đã được đưa vào chính trái tim của Thiên Chúa. Tin rằng Đức Giêsu đã đổ máu mình ra vì chúng ta có nghĩa là loại bỏ mọi nghi ngờ về tình yêu vô biên làm cho mỗi một người trở nên cao quí. Ơn cứu chuộc chúng ta có một chiều kích xã hội bởi vì “Thiên Chúa, trong Đức Kitô, không chỉ cứu chuộc từng cá nhân, nhưng còn cứu chuộc các mối tương quan xã hội giữa con người với nhau”.[142] Tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong mỗi người có nghĩa là nhận ra rằng Người tìm cách thâm nhập mọi tình huống của con người và mọi mối liên kết xã hội: “Có thể nói, Chúa Thánh Thần có một sự sáng tạo vô biên, là thuộc tính riêng của thần trí, biết cách tháo gỡ mọi khúc mắc của thế sự, cả những khúc mắc phức tạp và khó lường nhất”.[143] Loan báo Tin Mừng có nghĩa là hợp tác với hoạt động giải thoát này của Chúa Thánh Thần. Chính mầu nhiệm Ba Ngôi nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh sự hiệp thông thần linh ấy, vì vậy chúng ta không thể hoàn thành bản thân hay được cứu độ mà chỉ dựa vào cố gắng của riêng mình. Từ tâm điểm của Tin Mừng chúng ta thấy mối liên kết sâu xa giữa loan báo Tin Mừng và thăng tiến con người, sự thăng tiến này bắt buộc phải được biểu hiện và phát triển trong mọi hoạt động loan báo Tin Mừng. Chấp nhận lời rao giảng cơ bản này – lời rao giảng mời gọi chúng ta đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và đáp lại tình yêu ấy bằng chính tình yêu là quà tặng của Người – sẽ tạo ra trong đời sống và hành động của chúng ta một lời đáp trước tiên và cơ bản: ước muốn, tìm kiếm, và bảo vệ lợi ích của người khác.
179. Mối liên kết giữa việc chúng ta chấp nhận sứ điệp cứu độ và tình yêu huynh đệ đích thực được thấy trong một số bản văn Kinh Thánh mà chúng ta cần suy gẫm để đánh giá được hết các hệ quả của chúng. Sứ điệp là cái mà chúng ta thường coi là hiển nhiên và có thể lặp lại hầu như một cách máy móc, mà không nhất thiết bảo đảm rằng nó có một hiệu ứng thực sự đối với đời sống chúng ta và trong các cộng đồng của chúng ta. Tình trạng này quá nguy hiểm, bởi nó làm chúng ta mất đi sự kinh ngạc, phấn khích và nhiệt tình để sống Tin Mừng của tình huynh đệ và công lý! Lời Chúa dạy rằng anh chị em của chúng ta là sự nối dài mầu nhiệm nhập thể cho mỗi người chúng ta: “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40). Cách chúng ta đối xử với người khác có một chiều kích siêu việt: “anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy” (Mt 7:2). Nó tương ứng với lòng thương xót mà Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em Ðấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại… Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6:36-38). Các đoạn Kinh Thánh này cho thấy rõ rằng ưu tiên tuyệt đối của việc “đi ra khỏi bản thân chúng ta để đến với các anh chị em chúng ta” là một trong hai giới răn lớn làm nền tảng cho mọi qui tắc luân lý và là dấu hiệu rõ ràng nhất để nhận ra sự tăng trưởng thiêng liêng trong việc đáp lại ân huệ hoàn toàn cho không của Thiên Chúa. Vì lý do này, “việc phục vụ bác ái cũng là một yếu tố cấu thành của sứ mạng Hội Thánh và là một biểu hiện thiết yếu của chính sự hiện hữu của Hội Thánh”.[144] Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; Hội Thánh tràn trề đức ái hiệu quả và một sự cảm thông có sức thấu hiểu, giúp đỡ và phát huy.
Nước Thiên Chúa và thách thức của nó
180. Đọc Kinh Thánh cũng cho ta thấy rõ rằng Tin Mừng không chỉ thuần tuý là về mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cũng không được coi lời đáp yêu thương của chúng ta với Thiên Chúa như chỉ là tập hợp các nghĩa cử nhỏ bé và riêng lẻ của chúng ta đối với các cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn, một kiểu gọi là “bác ái trên giấy”, hay một chuỗi các hành vi chỉ cốt làm cho lương tâm chúng ta khỏi áy náy. Tin Mừng là về Nước Thiên Chúa (xem Lc 4:43); về yêu mến Thiên Chúa Đấng ngự trị trong thế giới chúng ta. Bao lâu Người ngự trị giữa chúng ta, đời sống xã hội sẽ là một môi trường của tình huynh đệ phổ quát, công lý, hoà bình và nhân phẩm. Vì vậy, cả việc rao giảng và đời sống Kitô giáo đều phải có một ảnh hưởng trên xã hội. Chúng ta đang tìm kiếm Nước Chúa: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33). Sứ mạng Đức Kitô là thiết lập vương quốc của Cha Người; Ngài truyền cho các môn đệ đi rao giảng tin vui rằng “Nước Trời đã đến gần” (Mt 10:7).
181. Vương quốc này, vốn đã hiện diện và lớn lên giữa chúng ta, lôi kéo sự tham dự của chúng ta trên mọi bình diện và nhắc nhớ chúng ta về nguyên tắc phân định mà Đức Phaolô VI áp dụng cho sự phát triển đích thực: nó phải hướng tới “mọi người và trọn vẹn con người”.[145] Chúng ta biết “loan báo Tin Mừng sẽ không hoàn hảo nếu nó không lưu tâm tới tác động qua lại liên tục của Tin Mừng và đời sống cụ thể của con người, đời sống cá nhân cũng như xã hội”.[146] Đây là nguyên tắc về tính phổ quát nội tại của Tin Mừng, vì Cha muốn sự cứu rỗi của mọi người, nam cũng như nữ, và kế hoạch cứu độ của Người là “qui tụ muôn loài trong Đức Kitô, mọi loài trên trời và dưới đất” (Ep 1:10). Sứ mạng chúng ta là “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15), vì “muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8:19). Ở đây, “loài thọ tạo” chỉ về mọi khía cạnh của đời sống con người; do đó, “sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô có một đích đến hoàn vũ. Nhiệm vụ của sứ mạng này bao gồm mọi chiều kích của đời sống, mọi lãnh vực của đời sống cộng đồng, và mọi dân tộc. Không có gì của con người có thể xa lạ với nó”.[147] Niềm hi vọng Kitô giáo đích thực là tìm kiếm vương quốc cánh chung, nó luôn luôn sinh ra lịch sử.
Giáo huấn của Hội Thánh về các vấn đề xã hội
182. Các giáo huấn của Hội Thánh liên quan đến các tình huống trần thế đều chịu sự chi phối các sự phát triển mới và xa hơn và có thể được mở ra cho tranh luận, nhưng chúng ta phải cụ thể – tuy không quá đi vào chi tiết – nếu không các nguyên tắc lớn về xã hội sẽ mãi mãi chỉ là những điều khái quát chẳng thách thức được một ai. Cần phải rút ra những kết luận thực hành, để chúng “có tác động lớn đến sự phức tạp của các tình huống hiện hành”.[148] Các mục tử của Hội Thánh, trong khi lưu tâm tới các đóng góp của các khoa học khác nhau, có quyền đưa ra các ý kiến về tất cả những gì ảnh hưởng đến đời sống con người, vì nhiệm vụ loan báo Tin Mừng bao hàm và đòi hỏi sự thăng tiến toàn vẹn mỗi con người. Không còn có thể chủ trương rằng tôn giáo phải được hạn chế trong lãnh vực tư riêng và nó chỉ tồn tại để chuẩn bị các linh hồn vào thiên đàng. Chúng ta biết Thiên Chúa muốn các con cái Người được hạnh phúc cả ở đời này nữa, mặc dù họ được kêu gọi để hưởng sự viên mãn trong cõi vĩnh cửu, vì Người đã tạo dựng nên mọi sự “cho chúng ta hưởng dùng” (1 Tm 6:17), cho mọi người hưởng dùng. Hệ quả là sự hoán cải của người Kitô hữu đòi hỏi phải duyệt xét lại đặc biệt những lãnh vực và những khía cạnh của đời sống “liên quan đến trật tự xã hội và việc theo đuổi lợi ích chung”.[149]
Bài này đã được xem 1085 lần!