183. Do đó, không ai có thể đòi tôn giáo phải bó gọn vào trong nội cung của đời sống cá nhân, không có ảnh hưởng gì tới đời sống xã hội và quốc gia, không quan tâm gì tới sự lành mạnh của các cơ chế dân sự, không có quyền đóng góp ý kiến về các vấn đề ảnh hưởng tới xã hội. Có ai dám tuyên bố khoá chặt và bắt nín lặng sứ điệp của Thánh Phanxicô Assisi hay Chân Phước Têrêxa Calcutta? Hẳn là chính các ngài sẽ coi đó là chuyện không thể chấp nhận được. Một đức tin chân chính – không bao giờ dễ chịu hay cá nhân – luôn luôn bao hàm một ước muốn sâu xa là biến đổi thế giới, truyền thông các giá trị, làm cho thế giới này phần nào tốt hơn khi ta gặp nó. Chúng ta yêu quí hành tinh tuyệt vời này, nơi Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào, chúng ta yêu quí gia đình nhân loại đang cư ngụ ở đây, với tất cả những thảm cảnh và những đấu tranh, những hi vọng và ước mơ, những yếu đuối và sức mạnh của nó. Trái đất là nhà chung của chúng ta và tất cả chúng ta là anh chị em của nhau. Nếu quả thực “việc điều hoà trật tự công bằng của xã hội và nhà nước là một trách nhiệm chính trị”, thi Hội Thánh “không thể đứng bên lề cuộc đấu tranh cho công lý”.[150] Mọi Kitô hữu, bao gồm cả các mục tử của họ, được kêu gọi bày tỏ quan tâm đối với việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Đây là điều cơ bản, vì tư tưởng xã hội của Hội Thánh chủ yếu là tích cực: Hội Thánh cống hiến các đề nghị, Hội Thánh hoạt động cho sự thay đổi và theo nghĩa này Hội Thánh vạch ra niềm hi vọng phát sinh từ trái tim yêu thương của Đức Giêsu Kitô. Đồng thời, Hội Thánh nối kết “sự dấn thân của chính mình với sự dấn thân trong lãnh vực xã hội của các Hội Thánh và các Cộng Đồng Hội Thánh khác, dù trên bình diện suy tư về học thuyết hay bình diện thực hành”.[151]
184. Đây không phải lúc cũng chẳng phải chỗ để xem xét chi tiết rất nhiều vấn đề xã hội đang ảnh hưởng tới thế giới hôm nay, và tôi cũng đã đề cập đến một số vấn đề này ở chương hai. Tông huấn này không phải là một văn kiện xã hội, và chúng ta có một công cụ thích hợp nhất để suy tư về các chủ đề khác nhau ấy, đó là cuốn Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh Công Giáo, là văn kiện mà tôi nhiệt liệt khuyến khích anh chị em đọc và học hỏi. Hơn nữa, Giáo Hoàng hay Hội Thánh không độc quyền về việc diễn giải các thực tại xã hội hay đề nghị các giải pháp cho các vấn đề đương đại. Ở đây tôi có thể lặp lại nhận định sâu sắc của Đức Phaolô VI: “Đối diện với những tình huống thay đổi sâu rộng như thế, chúng ta thật khó có thể phát biểu một thông điệp thống nhất và đưa ra một giải pháp có giá trị phổ quát. Đây không phải là tham vọng hay sứ mạng của chúng ta. Các cộng đồng Kitô có nhiệm vụ phân tích một cách khách quan tình huống riêng của quốc gia mình”.[152]
185. Dưới đây tôi muốn tập trung vào hai vấn đề lớn mà tôi coi là rất cơ bản trong thời kỳ này của lịch sử. Tôi sẽ trình bày hai vấn đề này đầy đủ hơn vì tôi tin chúng sẽ định hình tương lai của nhân loại. Vấn đề thứ nhất là sự bao gồm người nghèo trong xã hội, và vấn đề thứ hai là hoà bình và đối thoại xã hội.
II. SỰ BAO GỒM NGƯỜI NGHÈO TRONG XÃ HỘI
186. Đức tin của chúng ta vào Đức Kitô, Đấng đã trở nên nghèo khó và luôn luôn gần gũi những người nghèo và những người bị hất hủi, là cơ sở cho mối quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển toàn diện của các thành viên bị lãng quên nhất của xã hội.
Kết hiệp với Thiên Chúa, chúng ta nghe thấy một tiếng kêu xin
187. Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa cho việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, và giúp họ là thành viên đầy đủ của xã hội. Việc này đòi chúng ta phải mở lòng và chăm chú lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và đến cứu giúp họ. Chỉ cần lướt qua Sách Thánh cũng đủ để chúng ta thấy Cha nhân từ của chúng ta hằng muốn lắng nghe tiếng kêu của người nghèo: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng… Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi …” (Xh 3:7-8, 10). Chúng ta cũng thấy Người quan tâm tới các nhu cầu của họ như thế nào: “Bấy giờ con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa, Ðức Chúa liền cho xuất hiện một vị cứu tinh” (Tl 3:15). Nếu chúng ta, những người được Chúa dùng để lắng nghe người nghèo, mà bịt tai trước tiếng kêu xin này, chúng ta chống lại ý muốn và kế hoạch của Người; người nghèo kia “có thể sẽ kêu lên Ðức Chúa tố cáo anh (em) và anh (em) sẽ mang tội” (Đnl 15:9). Thiếu tình liên đới với các nhu cầu của người nghèo sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa: “Ai cay đắng trong lòng mà nguyền rủa con, thì Ðấng tạo thành ra nó sẽ nghe lời nó thỉnh nguyện” (Hc 4:6). Câu hỏi xa xưa luôn luôn vang vọng trở lại: “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1 Ga 3:17). Chúng ta cũng hãy nhớ lại tông đồ Giacôbê đã nói thẳng như thế nào về tiếng kêu của người bị áp bức: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh” (5:4).
188. Hội Thánh đã nhận ra rằng chính nhu cầu lắng nghe tiếng kêu cứu này phát sinh từ hành động giải thoát của ân sủng trong mỗi người chúng ta, và vì thế đây không phải là sứ mạng chỉ dành riêng cho một số ít người: “Được hướng dẫn bởi Tin Mừng của lòng thương xót và tình yêu thương đối với loài người, Hội Thánh nghe thấy tiếng kêu đòi công lý và muốn đáp lại tiếng kêu này bằng tất cả sức lực của mình”.[153] Trong bối cảnh này chúng ta có thể hiểu lệnh truyền của Đức Giêsu cho các môn đệ: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6:37): có nghĩa là làm việc để loại trừ các cơ cấu gây nên đói nghèo, đồng thời cổ vũ sự phát triển toàn diện của người nghèo, cũng như có những hành vi nho nhỏ hằng ngày để đáp ứng các nhu cầu thực sự mà chúng ta gặp. Từ “tình liên đới” đã hơi cũ và đôi khi bị hiểu một cách hạn chế, nhưng nó chỉ về một cái gì lớn hơn là một ít hành vi quảng đại lẻ tẻ. Nó muốn chỉ về việc tạo ra một não trạng biết nghĩ đến cộng đồng và vị trí ưu tiên của sự sống vượt lên trên việc chiếm hữu của cải bởi một số ít người.
189. Tình liên đới là một phản ứng tự nhiên của những người nhận ra rằng chức năng xã hội của tài sản và mục tiêu phổ quát của của cải là những thực tại đi trước quyền tư hữu. Quyền tư hữu tài sản được biện minh bởi nhu cầu bảo vệ và gia tăng chúng, để chúng có thể phục vụ công ích tốt hơn; vì lý do này, tình liên đới phải được sống như là quyết định hoàn trả cho người nghèo những gì thuộc về họ. Các xác tín và thói quen này về tình liên đới, khi được đem ra thực hành, sẽ mở đường cho những biến đổi khác về cơ cấu và làm cho chúng trở thành hiện thực. Thay đổi các cơ cấu mà không tạo ra được những niềm tin và thái độ mới thì chắc chắn chỉ làm cho các cơ cấu ấy sớm hay muộn sẽ trở thành tham nhũng, áp bức và vô bổ.
190. Đôi khi đây là vấn đề lắng nghe tiếng kêu của cả dân tộc, những dân tộc nghèo khổ nhất trên trái đất, vì “hoà bình không chỉ được đặt nền trên sự tôn trọng các quyền của con người, mà còn được đặt nền trên sự tôn trọng các quyền của các dân tộc”.[154] Buồn thay, ngay cả các quyền của con người cũng bị lợi dụng để biện minh cho một sự bênh vực các quyền của các cá nhân hay các quyền của các dân tộc giàu có hơn. Trong khi tôn trọng chủ quyền và văn hoá của mỗi quốc gia, chúng ta không bao giờ được quên rằng hành tinh này thuộc về toàn thể nhân loại và được dành cho toàn thể nhân loại; sự kiện một số dân tộc được sinh ra tại những nơi có ít tài nguyên hơn hay ít phát triển hơn không biện minh cho sự kiện họ đang sống kém phẩm giá hơn. Cần phải nói lại rằng “những người may mắn hơn phải từ bỏ một số quyền lợi của mình để đặt của cải của mình một cách quảng đại hơn vào việc phục vụ người khác”.[155] Để nói đúng về các quyền của mình, chúng ta cần mở rộng tầm nhìn và nghe tiếng kêu của các dân tộc và các vùng khác ngoài đất nước của chính chúng ta. Chúng ta cần lớn lên trong tình liên đới để nó “giúp mọi dân tộc trở thành những người tạo nên vận mệnh của chính mình”,[156] vì “mọi người được kêu gọi hoàn thành bản thân mình”.[157]
191. Ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, với sự trợ giúp của các mục tử, người Kitô hữu được kêu gọi nghe tiếng kêu của người nghèo. Điều này đã được phát biểu một cách hùng hồn bởi các giám mục Brazil: “Chúng tôi muốn mang lấy những niềm vui và hi vọng, những khó khăn và đau buồn của dân tộc Brazil, đặc biệt của những người đang sống tại các vùng ngoại ô và nông thôn – những người không ruộng đất, không nhà cửa, thiếu lương thực và sự chăm sóc y tế – khiến các quyền lợi của họ phải thiệt thòi. Nhìn cảnh nghèo khổ của họ, nghe những tiếng kêu của họ và biết những đau khổ của họ, chúng tôi cảm thấy nhức nhối vì biết rằng có đủ lương thực cho mọi người và nạn đói là kết quả của một sự phân phối của cải và thu nhập thấp kém. Vấn đề còn tồi tệ hơn nữa vì tình trạng phí phạm tràn lan”.[158]
192. Nhưng chúng ta còn ước ao nhiều hơn thế; ước mơ của chúng ta bay cao hơn. Chúng ta không chỉ đang nói về việc bảo đảm dinh dưỡng hay một “điều kiện sinh sống xứng đáng” cho mọi người, mà cả “hạnh phúc và sự thịnh vượng vật chất chung” của họ.[159] Điều này có nghĩa là được hưởng một nền giáo dục, chăm sóc y tế, và trên hết là việc làm, vì chính nhờ lao động tự do, sáng tạo, tham gia và nâng đỡ lẫn nhau mà con người biểu hiện và nâng cao phẩm giá cuộc sống của họ. Một mức lương công bằng sẽ giúp họ tiếp cận một cách thoả đáng mọi món hàng khác để sử dụng trong đời sống bình thường.
Trung thành với Tin Mừng, kẻo chúng ta luống công vô ích
193. Chúng ta hiện thực hoá bổn phận nghe tiếng kêu của người nghèo khi chúng ta mủi lòng trước cảnh đau khổ của người khác. Chúng ta hãy nghe Lời Chúa dạy chúng ta như thế nào về lòng thương người, và để cho lời ấy vang dội trong đời sống Hội Thánh. Tin Mừng nói với chúng ta: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Thánh tông đồ Giacôbê dạy rằng lòng thương người sẽ biện hộ cho chúng ta trong ngày Chúa phán xét: “Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật tự do. Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn ai thương xót, thì chẳng quan tâm đến việc xét xử” (Gc 2:12-13). Ở đây Thánh Giacôbê trung thành với truyền thống tinh tế nhất của linh đạo Do Thái sau thời lưu đày, là linh đạo gán cho lòng thương xót một giá trị đặc biệt: “Hãy gỡ bỏ các tội lỗi mình bằng thực thi công chính, gỡ bỏ các điều gian ác bằng cách tỏ lòng thương xót với những người bị áp bức, để may ra có thể kéo dài thời an bình của đức vua” (Đn 4:27 [4:24]). Các sách thuộc thể loại khôn ngoan quan niệm việc bố thí là một cách thực thi cụ thể lòng thương xót đối với những người nghèo: “Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi” (Tb 12:9). Ý tưởng này thậm chí được sách Huấn Ca diễn tả giàu hình ảnh hơn nữa: “Nước dập tắt lửa hồng, bố thí đền bù tội lỗi” (Hc 3:30). Tân Ước cũng có cùng một tổng hợp: “Anh em hãy yêu thương nhau nồng nàn, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1 P 4:8). Chân lý này đã ảnh hưởng sâu đậm đến các Giáo Phụ và giúp tạo nên một sự phản kháng mang tính tiên tri và kháng văn hoá chống lại chủ nghĩa hưởng thụ ích kỷ của ngoại giáo. Chúng ta có thể đơn cử một ví dụ: “Nếu chúng ta gặp nguy hiểm vì lửa, chắc chắn chúng ta sẽ chạy đi lấy nước để dập tắt lửa… cũng vậy, nếu một tia lửa tội lỗi bùng lên từ đống rơm của chúng ta làm chúng ta gặp rắc rối, thì khi có cơ hội để thực thi một việc thương người, chúng ta phải vui mừng như thể đang có trước mặt một suối nước để có thể dập tắt lửa”.[160]
194. Thông điệp này quá rõ ràng và trực tiếp, quá đơn sơ và hùng hồn, nên không một lối chú giải nào của Hội Thánh có quyền tương đối hoá nó. Suy tư của Hội Thánh về các bản văn này không được che khuất hay làm yếu đi sức mạnh của nó, nhưng thôi thúc chúng ta đón nhận những lời khuyên này một cách can đảm và nhiệt tình. Tại sao lại phải làm cho một điều đơn sơ trở thành phức tạp? Các khái niệm là những công cụ để tăng cường sự tiếp xúc với các thực tại chứ không phải để làm chúng ta xa thực tại. Điều này đặc biệt đúng với những lời khuyên của Kinh Thánh kêu gọi chúng ta một cách mạnh mẽ về tình yêu thương huynh đệ, về việc phục vụ khiêm tốn và quảng đại, về công bằng và lòng thương xót đối với người nghèo. Đức Giêsu dạy chúng ta cách nhìn này về người khác bằng chính những lời nói và hành động của Ngài. Vậy cớ gì lại phải làm cho một điều đã quá rõ trở nên khó hiểu? Chúng ta không được chỉ quan tâm tránh rơi vào những sai lạc về giáo thuyết, mà còn phải lo sao để trung thành với con đường sự sống và sự khôn ngoan chứa chan ánh sáng này. Vì “những người bênh vực sự chính thống của học thuyết đôi khi bị tố cáo là thụ động, bao dung, hay đồng lõa liên quan đến những tình huống bất công không thể dung thứ và các thể chế chính trị nuôi dưỡng chúng”.[161]
195. Khi Thánh Phaolô lên Giêrusalem gặp các tông đồ để xác định rõ liệu ngài đang “ngược xuôi hay đã ngược xuôi vô ích” (Gl 2:2), thì tiêu chí các ngài nêu ra để đánh giá tính xác thực là ngài không được bỏ quên người nghèo (xem Gl 2:10). Nguyên tắc quan trọng này – nghĩa là các cộng đoàn của Phaolô không được rơi vào lối sống vị kỷ của người ngoại giáo – vẫn còn mang tính thời sự hôm nay, khi mà lối sống vị kỷ của một thứ ngoại giáo mới đang gia tăng. Có thể chúng ta không luôn luôn suy tư đầy đủ được về vẻ đẹp của Tin Mừng, nhưng có một dấu hiệu mà chúng ta không bao giờ được thiếu: chọn lựa vì những người hèn mọn nhất, những người bị xã hội loại trừ.
196. Đôi khi lòng trí chúng ta ra chai đá; chúng ta dễ quên, dễ phân tâm và bị lôi đi bởi những khả năng tiêu thụ và giải trí vô giới hạn do xã hội ngày nay cung cấp. Tình trạng này dẫn tới một sự tha hoá về mọi phương diện, vì “một xã hội bị tha hoá khi các hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu thụ của nó làm cho người ta khó trao hiến bản thân mình và thiết lập tình liên đới giữa những con người với nhau”.[162]
Vị trí đặc biệt của người nghèo trong dân của Thiên Chúa
197. Trong trái tim của Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt cho người nghèo, vì chính Thiên Chúa “đã trở nên nghèo khó” (2 Cr 8:9). Toàn thể lịch sử cứu độ được đánh dấu bởi sự hiện diện của người nghèo. Ơn cứu độ đến với chúng ta qua lời thưa “xin vâng” thốt ra từ một thiếu nữ nghèo hèn xuất thân từ một làng nhỏ ở ngoài rìa một đế quốc vĩ đại. Đấng Cứu Thế sinh ra trong một máng cỏ, giữa đàn súc vật, giống như bao trẻ em của các gia đình nghèo; Ngài được dâng trong Đền Thờ với một cặp bồ câu non, là loại lễ vật của những người không có khả năng mua một con chiên con (xem Lc 2:24; Lv 5:7); Ngài được nuôi dạy trong một gia đình lao động bình thường kiếm sống bằng bàn tay lao động của mình. Khi Ngài bắt đầu rao giảng Nước Thiên Chúa, đám đông dân chúng nghèo hèn đi theo Ngài, minh hoạ cho lời tuyên bố của Ngài: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4:18). Ngài quả quyết với những người trĩu nặng buồn phiền và bị đè nặng bởi cảnh nghèo khó rằng Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt cho họ trong trái tim Người: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6:20); Ngài đồng hoá mình với họ: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn”, và Ngài dạy họ rằng lòng thương xót đối với những người này là chìa khoá để vào nước trời (xem Mt 25:5tt.).
Bài này đã được xem 1081 lần!