TÔNG HUẤN NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – EVANGELII GAUDIUM

215. Có những tạo vật yếu đuối và vô phương tự vệ khác thường xuyên phải làm nô lệ cho những lợi lộc kinh tế và sự bóc lột bừa bãi. Tôi đang nói đến toàn thể tạo thành. Loài người chúng ta không chỉ là những người được thụ hưởng nhưng còn là những người quản lý các tạo vật khác. Nhờ chúng ta có thân xác, Thiên Chúa đã kết hợp chúng ta quá mật thiết với thế giới xung quanh khiến chúng ta cảm thấy tình trạng sa mạc hoá đất đai gần như là một căn bệnh nơi thân xác chúng ta, và sự tuyệt chủng của một loài như là một sự biến dạng đau đớn. Chúng ta đừng để lại sau mình vết tích của sự tàn phá và chết chóc sẽ ảnh hưởng tới đời sống của chính chúng ta và của các thế hệ tương lai.[177] Ở đây tôi muốn lấy lại làm của mình lời than thở đầy cảm động và có tính tiên tri mà các giám mục Philíppin đã thốt lên ít năm trước đây: “Một số lượng nhiều vô kể các loài côn trùng sinh sống trong rừng và bận bịu với đủ loại công việc… Các loài chim bay trên trời, các bộ lông sặc sỡ cùng với tiếng hót líu lo của chúng tạo thêm màu sắc và tiếng ca cho những cánh rừng xanh… Thiên Chúa muốn dành mảnh đất này cho chúng ta, những tạo vật đặc biệt của Người, nhưng không phải để chúng ta huỷ diệt nó và biến nó thành một mảnh đất hoang… Chỉ sau một đêm mưa, thử nhìn xuống những dòng sông nâu sạm màu sôcôla tại địa phương của chúng ta và nhớ rằng chúng đang mang máu sự sống ra biển… Làm sao cá có thể bơi lội trong những dòng nước thải như con sông Pasig và biết bao nhiêu con sông khác mà chúng ta đã làm ô nhiễm? Ai đã biến cái thế giới kỳ diệu của biển cả thành những nghĩa trang dưới nước không màu sắc và không sự sống?”[178]

216. Là những tạo vật bé nhỏ nhưng mạnh mẽ trong tình yêu Thiên Chúa giống như Thánh Phanxicô, mọi người Kitô hữu chúng ta được kêu gọi canh chừng và bảo vệ cái thế giới mong manh mà chúng ta đang sống, cùng với tất cả dân cư của nó.

III. CÔNG ÍCH VÀ HOÀ BÌNH TRONG XÃ HỘI

217. Chúng ta đã nói nhiều về niềm vui và tình yêu, nhưng Lời Chúa cũng nói về những hoa quả của hoà bình (xem Gl 5:22).

218. Hoà bình trong xã hội không thể được hiểu như là sự bình định hay vắng bóng bạo lực do sự thống trị của một bộ phận xã hội trên các bộ phận khác. Hoà bình thực cũng không phải là cái cớ để biện minh cho một cơ cấu xã hội làm cho người nghèo phải câm miệng hay chịu cam phận, để cho những kẻ giàu có hơn có thể ung dung hưởng thụ nếp sống của họ đang khi những người khác phải cố sống được thế nào hay thế ấy. Những đòi hỏi về sự phân phối của cải, sự quan tâm tới người nghèo và các quyền con người không thể được dập tắt bằng cái vỏ bọc tạo ra một sự đồng thuận trên giấy tờ hay một thứ hoà bình tạm bợ cho một thiểu số mãn nguyện. Phẩm giá con người và công ích giữ vị trí cao hơn sự tiện nghi của những người không chấp nhận từ bỏ những đặc quyền của mình. Khi những giá trị này bị đe doạ, cần phải gióng lên một tiếng nói tiên tri.

219. Hoà bình cũng không phải “chỉ là không có chiến tranh, dựa trên một thế cân bằng lực lượng bấp bênh; hoà bình được hình thành bởi những cố gắng hằng ngày nhằm thiết lập một vũ trụ có trật tự theo ý muốn của Thiên Chúa, với một nền công lý hoàn hảo hơn giữa những con người”.[179] Sau cùng, một nền hoà bình mà không phải là kết quả của sự phát triển toàn diện thì sẽ đi đến thất bại; nó sẽ luôn luôn sinh ra những xung đột mới và những hình thức bạo lực mới.

220. Người dân tại mọi quốc gia phát huy chiều kích xã hội của cuộc sống họ bằng cách hành động như những công dân dấn thân và có trách nhiệm, chứ không phải như một đám đông đu đưa theo bất cứ thế lực nào. Chúng ta không được quên rằng “tư cách công dân có trách nhiệm là một nhân đức, và sự tham gia đời sống chính trị là một bổn phận đạo đức”.[180] Nhưng trở thành một dân tộc đòi hỏi nhiều hơn thế. Nó là một tiến trình thường xuyên trong đó mỗi thế hệ mới phải tham gia: một cố gắng chậm chạp và vất vả đòi hỏi một ước muốn hoà nhập và một sự sẵn sàng đạt được điều này qua sự phát triển một nền văn hoá của sự gặp gỡ trong hoà bình và đa dạng.

221. Sự tiến bộ trong việc xây dựng một dân tộc trong hoà bình, công bằng và huynh đệ tuỳ thuộc bốn nguyên tắc liên quan tới các mối căng thẳng thường xuyên hiện hữu trong mọi thực tại xã hội. Các nguyên tắc này bắt nguồn từ các cột trụ của học thuyết xã hội của Hội Thánh, được dùng như “những thông số tham khảo hàng đầu và cơ bản để giải thích và đánh giá các hiện tượng xã hội”.[181] Trong ánh sáng này, bây giờ tôi muốn nêu lên bốn nguyên tắc cụ thể này để hướng dẫn sự phát triển của đời sống trong xã hội và xây dựng một dân tộc mà ở đó các khác biệt được trở nên hoà hợp trong một cố gắng chung. Tôi làm điều này với niềm tin rằng việc áp dụng chúng có thể là một con đường đúng đắn dẫn tới hoà bình trong mỗi quốc gia và trong toàn thế giới.

Thời gian lớn hơn không gian

222. Có một sự căng thẳng thường xuyên giữa sự viên mãn và sự giới hạn. Viên mãn gợi ra ước muốn chiếm hữu hoàn toàn, trong khi giới hạn là một bức tường chắn trước mặt chúng ta. Hiểu theo nghĩa rộng, “thời gian” chỉ về sự viên mãn như là biểu thị của chân trời không ngừng rộng mở trước mặt chúng ta, trong khi từng khoảnh khắc chỉ về sự giới hạn như là biểu thị của trạng thái đóng kín. Người ta sống trong tình trạng căng thẳng giữa từng khoảnh khắc và cái chân trời lớn hơn, sáng hơn của một tương lai không tưởng như là mục đích cuối cùng lôi kéo chúng ta tới. Ở đây chúng ta có một nguyên tắc đầu tiên cho sự tiến bộ trong việc xây dựng một dân tộc: thời gian lớn hơn không gian.

223. Nguyên tắc này giúp chúng ta hoạt động từ từ nhưng chắc chắn, không bị ám ảnh bởi những kết quả tức thì. Nó giúp chúng ta kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn và nghịch cảnh, hay những thay đổi không tránh khỏi trong các kế hoạch của mình. Nó mời gọi chúng ta chấp nhận sự căng thẳng giữa sự viên mãn và sự giới hạn, và dành ưu tiên cho thời gian. Một trong các khuyết điểm chúng ta thường gặp trong hoạt động chính trị-xã hội là người ta thích không gian và quyền lực hơn thời gian và các qui trình. Dành ưu tiên cho không gian có nghĩa là điên cuồng tìm cách níu kéo tất cả trong hiện tại, cố gắng chiếm hữu tất cả các không gian của quyền lực và sự tự khẳng định mình; là cô đọng các qui trình và cố níu kéo chúng. Dành ưu tiên cho thời gian có nghĩa là quan tâm tới việc khởi động các qui trình hơn là chiếm hữu không gian. Thời gian điều khiển các không gian, soi sáng chúng và biến chúng thành những mắt xích trong một chuỗi xích kéo dài, không có khả năng quay ngược trở lại. Vì vậy cái chúng ta cần là dành ưu tiên cho các hành động phát sinh các qui trình mới trong xã hội và lôi kéo sự tham gia của những người khác và những nhóm khác, những người có thể phát triển chúng tới chỗ chúng sinh hoa kết quả trong các biến cố lịch sử quan trọng. Không lo âu, nhưng đầy những xác tín rõ ràng và sự bền bỉ.

224. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi liệu có ai trong thế giới hôm nay thực sự quan tâm tới việc tạo ra các qui trình xây dựng con người, thay vì muốn đạt được những kết quả tức thì đem lại những lợi lộc chính trị nhanh và ngắn hạn, mà không phát triển sự sung mãn của con người. Có lẽ lịch sử sẽ phán xét hạng người thứ hai này với tiêu chí được đề ra bởi Romano Guardini: “Thước đo duy nhất để đánh giá đúng một thời đại là hỏi xem nó có nuôi dưỡng sự phát triển và thành đạt của một cuộc sống con người sung mãn và thực sự có ý nghĩa, phù hợp với nét đặc trưng và các khả năng của thời đại ấy”.[182]

225. Tiêu chí này cũng được áp dụng cho việc loan báo Tin Mừng, là công việc đòi phải chú ý tới bức tranh lớn, mở ra cho các qui trình thích hợp và quan tâm tới dài hạn. Chính Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế này thường khuyến cáo các môn đệ rằng có những điều bây giờ họ chưa hiểu và họ sẽ phải chờ Chúa Thánh Thần đến (xem Ga 16:12-13). Dụ ngôn cỏ lùng giữa ruộng lúa (xem Mt 13:24-30) minh hoạ cho một khía cạnh quan trọng của loan báo Tin Mừng: kẻ thù có thể xâm nhập vào Nước Chúa và gieo tai hoạ, nhưng cuối cùng hắn sẽ bị đánh bại bởi sự tốt lành của cây lúa.

Hiệp nhất thắng xung đột

226. Xung đột không thể được làm ngơ hay che giấu. Phải đối diện nó. Nhưng nếu chúng ta bị mắc kẹt trong xung đột, chúng ta mất tầm nhìn, chân trời của chúng ta bị thu nhỏ lại và chính thực tại bắt đầu tan rã. Ở trong xung đột, chúng ta mất ý thức về sự duy nhất sâu xa của thực tại.

227. Khi xảy ra xung đột, một số người chỉ biết nhìn rồi bỏ đi như thể chẳng có gì xảy ra; họ phủi tay rồi tiếp tục cuộc sống của mình. Những người khác thì bám chặt lấy nó khiến họ trở thành tù nhân của nó; họ bị mất phương hướng, phóng chiếu sự hoang mang và bất mãn của họ vào các tổ chức và vì thế làm cho không thể nào có được sự hiệp nhất. Nhưng cũng có một cách thứ ba, và đây là cách tốt nhất để xử lý xung đột. Đó là sẵn sàng trực diện với xung đột, giải quyết nó và làm nó trở thành mắt xích trong sợi dây của một qui trình mới. “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình!” (Mt 5:9).

228. Bằng cách này, việc xây dựng hiệp thông giữa những bất đồng là điều có thể, nhưng nó chỉ có thể đạt được bởi những con người tuyệt vời biết vượt lên trên bề mặt của xung đột và nhìn người khác trong nhân phẩm sâu xa nhất của họ. Điều này đòi hỏi phải nhìn nhận một nguyên tắc thiết yếu cho việc xây dựng tình bạn trong xã hội: đó là hiệp nhất lớn hơn xung đột. Như thế tình liên đới, hiểu theo nghĩa sâu xa nhất và thách thức nhất của nó, trở thành một cách để làm lịch sử trong một môi trường sống mà các xung đột, căng thẳng và đối kháng có thể đạt được một sự hiệp nhất đa dạng và đem lại sức sống. Đây không phải là chọn một thái độ ba phải, hay chọn cách hoà tan người này vào người kia, nhưng là chọn một cách giải quyết trên bình diện cao hơn và giữ lại điều gì có giá trị và ích lợi ở cả hai bên.

229. Đây là nguyên tắc được rút ra từ Tin Mừng, nó nhắc nhớ chúng ta rằng Đức Kitô đã qui tụ mọi sự nơi bản thân Ngài: trời và đất, Thiên Chúa và con người, thời gian và vĩnh cửu, thể xác và tinh thần, con người và xã hội. Dấu hiệu của sự hiệp nhất và hoà giải muôn loài này trong Ngài chính là hoà bình. Đức Kitô chính là “sự bình an của chúng ta” (Ep 2:14). Sứ điệp Tin Mừng luôn luôn bắt đầu bằng một câu chúc bình an, và bình an ở mọi thời đều làm rạng danh và xác nhận các mối quan hệ giữa các môn đệ Đức Kitô. Hoà bình là điều có thể, vì Chúa đã thắng thế gian và sự xung đột thường xuyên của nó “bằng cách hòa giải nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá” (Cl 1:20). Nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ hơn những đoạn Kinh Thánh này, chúng ta sẽ thấy rằng quỹ đạo của sự hoà giải các khác biệt này nằm trong chính chúng ta, trong cuộc đời chúng ta, vốn luôn luôn bị đe dọa bởi sự chia rẽ và đổ vỡ.[183] Nếu các trái tim bị phân tán thành hàng ngàn mảnh, thì không dễ tạo được hoà bình đích thực trong xã hội.

230. Thông điệp hoà bình không nói về một sự dàn xếp qua thương lượng, nhưng là một niềm tin chắc rằng sự hiệp nhất mà Chúa Thánh Thần đem đến có thể hoà giải mọi khác biệt. Nó khắc phục mọi xung đột bằng cách tạo ra một tổng hợp mới và đầy triển vọng. Sự khác biệt là một nét đẹp khi nó có thể không ngừng đi vào một qui trình hoà giải và đóng ấn cho một thứ giao ước văn hoá dẫn đến một sự “đa dạng hoà giải”. Như các giám mục Congo đã diễn tả: “Sự đa dạng sắc tộc của chúng ta là tài sản quí báu của chúng ta… Chỉ trong sự hiệp nhất, nhờ sự hoán cải của các tâm hồn và sự hoà giải, chúng ta mới có thể giúp đất nước mình phát triển trên mọi bình diện”.[184]

Thực tại lớn hơn ý tưởng

231. Cũng có một sự căng thẳng thường xuyên giữa các ý tưởng và các thực tại. Các thực tại thì hiện hữu, còn các ý tưởng thì được làm ra. Phải có sự đối thoại liên tục giữa thực tại và ý tưởng, nếu không các ý tưởng sẽ trở thành xa rời thực tại. Thật nguy hiểm khi chỉ dừng lại ở những lời nói suông, những hình ảnh và những bài diễn văn lời hay ý đẹp. Vì vậy chúng ta có một nguyên tắc thứ ba: các thực tại lớn hơn các ý tưởng. Nguyên tắc này đòi chúng ta phải bác bỏ các phương tiện khác nhau nhằm che giấu thực tại: các dạng tinh tuyền siêu phàm, sự chuyên chế của chủ nghĩa tương đối, những lời nói sáo rỗng, những mục tiêu lý tưởng nhưng không thực tế, những nhãn hiệu của chủ nghĩa cực đoan phi lịch sử, những hệ thống đạo đức không có tình thương, những nghị luận trí thức không có minh triết.

232. Các ý tưởng là kết quả của sự khai triển các khái niệm, chúng được dùng để truyền thông, hiểu biết và thực hành. Các ý tưởng tách rời khỏi thực tại thường tạo ra những hình thức duy tâm và duy danh vô bổ, cùng lắm cũng chỉ giúp phân loại và định nghĩa, nhưng chắc chắn không dẫn đến hành động. Các thực tại được lý trí soi sáng mới thúc đẩy chúng ta đến hành động. Thái độ duy danh hình thức phải nhường chỗ cho tính khách quan hài hoà. Nếu không, chân lý sẽ bị xuyên tạc, đồ mỹ phẩm sẽ thế chỗ cho sự chăm sóc thân xác thực sự.[185] Có những chính trị gia – thậm chí cả lãnh đạo tôn giáo – thường thắc mắc tại sao người ta không hiểu và theo họ, vì các đề nghị của họ quá rõ ràng và hợp lý. Lý do có lẽ là vì họ bị mắc kẹt trong lãnh vực các ý tưởng thuần tuý, dẫn đến việc giản lược chính trị và đức tin vào văn chương ngôn từ. Có những người khác bỏ hẳn sự đơn sơ để miệt mài với một thứ lý luận xa lạ với đa số dân chúng.

233. Các thực tại lớn hơn các ý tưởng. Nguyên tắc này liên quan tới sự nhập thể của Lời và được đưa vào thực hành: “Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Ðấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4:2). Nguyên tắc về thực tại, về một Lời đã nhập thể và không ngừng cố gắng nhập thể mãi, là nguyên tắc cơ bản cho việc loan báo Tin Mừng. Nó giúp chúng ta thấy rằng lịch sử Hội Thánh là một lịch sử cứu độ, giúp chúng ta nhớ đến những vị thánh đã đưa Tin Mừng nhập thể vào đời sống của các dân tộc và gặt hái những hoa của của truyền thống hai ngàn năm của Hội Thánh, mà không cần làm ra một hệ tư tưởng tách rời kho tàng này, như thể chúng ta muốn phát minh ra Tin Mừng một lần nữa. Đồng thời, nguyên tắc này thúc đẩy chúng ta đưa lời ra thực hành, thể hiện những công cuộc bác ái và công bằng để làm cho lời ấy sinh hoa kết quả. Không đưa lời vào thực hành, không biến lời thành thực tại, tức là xây trên cát, dừng lại ở trạng thái thuần ý tưởng và dẫn đến tình trạng bất động và vô hiệu quả của chủ nghĩa vị kỷ và ngộ đạo.

Toàn thể lớn hơn thành phần

234. Cũng có một sự căng thẳng tự nhiên giữa toàn cầu hoá và địa phương hoá. Chúng ta cần chú ý tới cái toàn cầu để tránh sự hẹp hòi và tầm thường. Nhưng chúng ta cũng cần nhìn đến cái địa phương để giữ chân luôn chạm đất. Đi chung với nhau, cả hai giúp chúng ta tránh rơi vào một trong hai thái cực. Ở thái cực thứ nhất, người ta bị mắc kẹt vào một vũ trụ toàn cầu hoá trừu tượng, họ lẽo đẽo theo sau bước chân mọi người khác, trầm trồ khen ngợi cái thế giới hào nhoáng của những người khác, há hốc miệng và vỗ tay khi gặp lúc. Ở thái cực thứ hai, người ta tìm đến với một bảo tàng của các truyện dân gian địa phương, một thế giới riêng, cứ quanh quẩn mãi với cùng những cái cũ, và không có khả năng để mình được thách thức bởi cái mới hay quí chuộng cái đẹp mà Thiên Chúa ban bên ngoài đường biên giới của họ.

235. Toàn thể lớn hơn thành phần, nhưng cũng lớn hơn tổng số các thành phần. Vì vậy, không cần bị ám ảnh quá nhiều bởi những vấn đề hạn hẹp và riêng biệt. Chúng ta cần không ngừng mở rộng chân trời của mình để thấy cái tốt lớn hơn mà tất cả chúng ta đều được hưởng. Nhưng phải làm điều này mà không tìm cách trốn tránh hay nhổ bỏ gốc rễ. Chúng ta cần cắm sâu các gốc rễ của mình vào mảnh đất phì nhiêu và lịch sử của quê quán mình, đó là một quà tặng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm ở qui mô nhỏ, trong khu vực chúng ta ở, nhưng với một nhãn quan rộng hơn. Và những người sống hết lòng trong một cộng đồng cũng không cân mất đi cá tính hay che giấu căn tính của họ; trái lại, họ nhận được những động lực mới để thăng tiến bản thân. Không cần bóp nghẹt cái toàn thể, cũng không cần làm cho cái đặc thù trở nên cằn cỗi.

Bài này đã được xem 1065 lần!

Pages ( 15 of 20 ): <1 ... 1314 15 1617 ... 20>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]