282. Thái độ này trở thành một kinh nguyện tạ ơn Thiên Chúa cho người khác: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Ðức Kitô Giêsu” (1 Cr 1:4); “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em” (Pl 1:3). Hoàn toàn không ngờ vực, tiêu cực hoặc gây thất vọng, thái độ này là một cái nhìn thiêng liêng xuất phát từ đức tin sâu xa biết nhìn nhận những gì Thiên Chúa đang làm nơi cuộc đời của những người khác. Đồng thời, đây là lòng biết ơn tuôn ra từ một trái tim quan tâm tới người khác. Khi người truyền giáo đứng dậy sau khi cầu nguyện, lòng của họ được mở rộng hơn; không còn chỉ quan tâm đến bản thân mình, họ háo hức làm việc thiện và chia sẻ cuộc sống với những người khác.
283. Những người nam người nữ tuyệt vời của Thiên Chúa đều là những người chuyển cầu tuyệt vời. Lời kinh chuyển cầu giống như “men trong trái tim của Thiên Chúa Ba Ngôi”. Đó là cách để đi sâu vào trái tim của Chúa Cha và khám phá ra những khía cạnh có thể dọi ánh sáng trên những tình huống cụ thể và thay đổi chúng. Có thể nói tim của Thiên Chúa bị lời chuyển cầu của chúng ta đánh động, nhưng trên thực tế Người luôn luôn có ở đó trước. Cái mà lời chuyển cầu của chúng ta đạt được là sức mạnh, tình yêu và sự trung tín của Người được tỏ lộ rõ ràng hơn giữa dân chúng.
II. ĐỨC MARIA, MẸ CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO
284. Cùng với Chúa Thánh Thần, Đức Maria luôn luôn hiện diện giữa dân [Chúa]. Ngài cùng với các môn đệ cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần ngự đến (Cv 1:14) và nhờ đó diễn ra cuộc bùng phát truyền giáo vào ngày lễ Ngũ Tuần. Đức Maria là Mẹ của Hội Thánh truyền giáo, và không có Mẹ, chúng ta không bao giờ có thể thực sự hiểu rõ tinh thần của cuộc tân Phúc-Âm-hoá.
Món quà của Chúa Giêsu cho dân của Người
285. Trên thánh giá, khi đang chịu đựng nơi thân thể mình cuộc hội ngộ đầy kịch tính giữa tội của thế gian và lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể cảm nhận được sự hiện diện đầy an ủi của Mẹ và các bạn của Ngài dưới chân thánh giá. Vào giờ phút quyết định ấy, trước khi hoàn tất công trình mà Cha đã giao phó cho Ngài, Đức Giêsu nói với Đức Maria: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi ngài nói với người bạn dấu yêu của Ngài: “Đây là mẹ của anh” (Ga 19:26-27). Những lời này của Đức Giêsu trong cơn hấp hối chủ yếu không phải là để bày tỏ lòng tôn sùng và quan tâm đối với Mẹ của Ngài; đúng hơn, đó là một công thức của mặc khải để tỏ lộ mầu nhiệm của một sứ mạng cứu rỗi đặc biệt. Đức Giêsu trối lại cho chúng ta Mẹ của Ngài. Chỉ sau khi làm xong việc này, Đức Giêsu biết rằng “bây giờ mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:28). Dưới chân thập giá, vào giờ phút tột đỉnh này của cuộc tạo dựng mới, Đức Kitô đưa chúng ta đến với Đức Maria. Ngài đưa chúng ta đến với Mẹ vì Ngài không muốn chúng ta đi trên đường đời mà không có một người mẹ, và dân của chúng ta đọc được nơi hình ảnh từ mẫu này tất cả các mầu nhiệm của Tin Mừng. Đức Kitô không muốn rời Hội Thánh mà không để lại biểu tượng này của tình mẫu tử. Là người đã đem Đức Giêsu vào thế gian với một đức tin tuyệt vời, Mẹ Maria cũng đồng hành với “những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Ðức Giêsu” (Kh 12:17). Mối liên kết mật thiết giữa Đức Maria, Hội Thánh và từng tín hữu, dựa trên sự kiện mỗi người sinh ra Đức Kitô theo cách riêng của mình, đã được Chân Phước Isaac Stella diễn tả thật tuyệt vời: “Trong Sách Thánh được linh hứng, những gì được nói về người trinh nữ làm mẹ theo một nghĩa phổ quát là Hội Thánh, đều được hiểu theo một nghĩa đặc thù là Trinh Nữ Maria… Tương tự, mỗi Kitô hữu cũng được gọi là hiền thê của Lời Thiên Chúa, là mẹ của Đức Kitô, là con gái và em gái của Ngài, vừa đồng trinh vừa đông con cái… Đức Kitô đã ở chín tháng trong nhà tạm cung lòng của Đức Maria. Ngài ở trong nhà tạm đức tin của Hội Thánh cho tới ngày tận thế. Ngài sẽ ở mãi mãi trong sự hiểu biết và tình yêu của mỗi linh hồn tín hữu”.[212]
286. Đức Maria đã có thể biến cái chuồng bò lừa thành một mái ấm cho hài nhi Giêsu, với những mảnh tã nghèo nàn và một tình yêu thương chan chứa. Mẹ là nữ tỳ của Cha để ca hát tán tụng Cha. Mẹ là người bạn luôn luôn quan tâm để cuộc đời chúng ta không thiếu rượu. Mẹ là người phụ nữ có trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu và đồng cảm với những nỗi đau của chúng ta. Là mẹ của mọi người, Mẹ là dấu hiệu hi vọng cho các dân tộc đang quặn đau để sinh ra công lý. Mẹ là người truyền giáo đến gần chúng ta và đồng hành với chúng ta suốt dòng đời, dùng tình mẫu tử để mở lòng chúng ta ra đón nhận đức tin. Là người mẹ thực sự, mẹ đi bên cạnh chúng ta, chia sẻ các phấn đấu của chúng ta và hằng bao bọc chúng ta bằng tình thương của Thiên Chúa. Bằng nhiều tước hiệu khác nhau, thường gắn liền với các đền đài của Mẹ, Mẹ Maria chia sẻ lịch sử của mỗi dân tộc đã đón nhận Tin Mừng và trở thành một phần của căn tính lịch sử của dân tộc ấy. Nhiều cha mẹ Kitô hữu xin cho con cái họ được rửa tội tại một đền Đức Mẹ, để biểu lộ niềm tin của họ vào tình từ mẫu của Mẹ, tình từ mẫu sinh ra các con cái mới cho Thiên Chúa. Tại nhiều đền thờ Đức Mẹ, chúng ta có thể thấy Mẹ Maria tập họp đông đảo các con cái Mẹ, những người con hết sức cố gắng hành hương đến đó để được nhìn thấy Đức Mẹ và được Đức Mẹ nhìn thấy mình. Tại đây họ tìm được sức mạnh Thiên Chúa ban để chịu đựng những vất vả mệt nhọc và những đau khổ trong cuộc sống. Như Mẹ từng an ủi Thánh Juan Diego, Mẹ cũng an ủi họ bằng tình thương từ mẫu, và thì thầm vào tai họ: “Con đừng lo lắng… Không phải Mẹ của con đang ở đây sao?”[213]
Ngôi Sao của cuộc tân Phúc-Âm-hoá
287. Chúng ta xin Mẹ của Tin Mừng sống chuyển cầu để lời mời gọi này cho một giai đoạn mới của việc loan báo Tin Mừng được toàn thể cộng đồng Hội Thánh đón nhận. Đức Maria là người phụ nữ đầy đức tin, sống và tiến bước trong đức tin,[214] và “cuộc lữ hành đức tin phi thường của Mẹ biểu thị một điểm qui chiếu cho Hội Thánh”.[215] Đức Maria để mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong hành trình đức tin hướng tới sứ mạng phục vụ và sinh hoa kết quả. Ngày nay chúng ta hướng về Mẹ và xin Mẹ giúp chúng ta loan báo sứ điệp cứu độ cho mọi người và giúp những người mới trở thành môn đệ đến lượt họ cũng trở thành những người loan báo Tin Mừng.[216] Trên con đường loan báo Tin Mừng này, chúng ta sẽ gặp những lúc khô khan, tăm tối và cả mệt mỏi. Bản thân Đức Maria đã từng trải nghiệm những thử thách này trong những năm tuổi thơ của Đức Giêsu tại Nadarét: “Đây là khởi đầu của Tin Mừng, tin mừng hân hoan. Tuy nhiên, không khó để nhận thấy nơi khởi đầu ấy một sự nặng nề đặc biệt của trái tim, gắn liền với một thứ đêm tối đức tin – những từ được Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng – một thứ ‘màn che’ mà qua đó chúng ta phải đến gần Đấng Vô Hình và sống trong sự thân mật với mầu nhiệm. Và đây chính là cách mà Đức Maria trong suốt nhiều năm đã sống trong sự thân mật với mầu nhiệm Con của ngài, và tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin của ngài”.[217]
288. Công cuộc loan báo Tin Mừng của Hội Thánh có một phong cách “Maria”. Mỗi khi nhìn lên Đức Mẹ, chúng ta một lần nữa tin vào bản chất cách mạng của tình thương và sự dịu dàng. Nơi Mẹ ta thấy rằng lòng khiêm nhường và dịu dàng không phải là nhân đức của kẻ những kẻ yếu đuối, nhưng của những người mạnh không cư xử tồi tệ với người khác để cảm thấy mình là quan trọng. Chiêm ngắm Đức Maria, chúng ta nhận ra rằng ngài là người từng ca ngợi Thiên Chúa vì “đã hạ bệ những kẻ quyền thế” và “đuổi người giàu có trở về tay trắng” (Lc 1:52-53) cũng là người đem đến một hơi ấm gia đình cho cuộc theo đuổi công lý của chúng ta. Ngài cũng là người cẩn thận “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Đức Maria có khả năng nhận ra những dấu vết của Thần Khí Thiên Chúa trong những sự kiện lớn cũng như nhỏ. Mẹ liên lỉ chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa trong thế giới chúng ta, trong lịch sử nhân loại và trong đời sống thường ngày của chúng ta. Mẹ là người phụ nữ cầu nguyện và lao động ở Nadarét, và cũng là Đức Bà Phù Giúp, từ làng mình “vội vã” (Lc 1:39) ra đi để phục vụ người khác. Sự giao thoa này giữa công bằng và nhân hậu, giữa chiêm niệm và sự quan tâm dành cho người khác, làm cho cộng đồng Hội Thánh nhìn lên Đức Mẹ như là mẫu gương cho việc loan báo Tin Mừng. Chúng ta nài xin sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ để Hội Thánh có thể trở thành một mái ấm cho nhiều dân tộc, một người mẹ cho mọi dân tộc, và mở đường để một thế giới mới có thể được sinh ra. Chính Đức Kitô phục sinh đã nói với chúng ta với một quyền năng làm chúng ta tràn trề tin tưởng và hi vọng: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21:5). Với Đức Mẹ, chúng ta tin tưởng tiến bước về sự hoàn thành lời hứa này, và chúng ta cầu nguyện với Mẹ:
Maria, Trinh Nữ, Mẹ dấu yêu
bởi tác động của Chúa Thánh Thần,
Mẹ đã đón nhận Lời Sự Sống
tự thẳm sâu đức tin khiêm cung:
Như Mẹ đã phó thác hoàn toàn cho Đấng Hằng Hữu,
xin giúp chúng con cũng biết thưa “vâng”
trước tiếng gọi ngày càng cấp bách,
đi rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Ngập tràn sự hiện diện của Đức Kitô,
Mẹ đem niềm vui đến cho Gioan Tẩy Giả,
khiến thánh nhi trong dạ mẹ nhảy mừng.
Lòng rộn ràng vui sướng hân hoan,
Mẹ ca hát những kỳ công của Chúa.
Đứng dưới chân thập giá, lòng tin không lay chuyển,
Mẹ vui sướng nhận niềm an ủi
vì Chúa đã phục sinh,
và cùng các môn đệ ngóng đợi Thánh Thần đến,
để Hội Thánh truyền giáo được khai sinh.
Nay xin Mẹ nguyện giúp cầu thay
cho chúng con đầy nhiệt huyết mới
bắt nguồn từ sự phục sinh của Chúa,
để chúng con đem đến mọi người
Tin Mừng của sự sống chiến thắng tử thần.
Xin cho chúng con lòng can đảm thánh thiện
biết tìm ra những lối đi mới
đem quà tặng của cái đẹp không phai
đến được với mọi người.
Ôi Trinh Nữ luôn lắng nghe và chiêm ngắm,
Mẹ tình yêu, Cô Dâu của tiệc cưới vĩnh hằng,
xin thương nguyện cầu cho Hội Thánh
để Hội Thánh không bao giờ đóng kín
hay đánh mất niềm say mê xây dựng Nước Chúa.
Xin Ngôi Sao của cuộc tân Phúc-Âm-hoá,
giúp chúng con thành chứng nhân rạng rỡ
cho tình hiệp thông và phục vụ,
cho đức tin nồng cháy và quảng đại,
cho công lý và tình thương đối với người nghèo,
để niềm vui Tin Mừng chạm đến tận cùng trái đất,
soi sáng cả những bờ rìa thế giới.
Lạy Mẹ của Tin Mừng sống động,
suối an vui cho những người bé mọn của Chúa,
xin cầu cho chúng con.
Amen. Allêluia!
Ban hành tại Roma, cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày 24 tháng 11 năm 2013, năm đầu tiên sứ vụ Giáo Hoàng của tôi, nhân ngày đại lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, và kết thúc Năm Đức Tin.
PHANXICÔ
Bản dịch tiếng Việt (2013) của
Lm. Dominique Ngô Quang Tuyên
Uỷ ban Loan báo Tin Mừng / HĐGMVN
Bản tiếng Việt này dịch từ bản tiếng Anh chính thức của Vatican, POPE FRANCIS, The Joy of the Gospel – Evangelii Gaudium, Vatican Press (2013). Các câu trích Kinh Thánh lấy từ bản dịch tiếng Việt của Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ với một ít thích nghi theo bản tiếng Anh.
…………………….
CHÚ THÍCH:
[1] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Gaudete in Domino (9-5-1975), 22: AAS 67 (1975), 297.
[2] Ibid. 8: AAS 67 (1975), 292.
[3] Thông Điệp Deus Caritas Est (25-12-2005), 1: AAS 98 (2006), 217.
[4] HỘI NGHỊ KHOÁNG ĐẠI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện Aparecida, 29-6-2007, 360.
[5] Ibid.
[6] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 80: AAS 68 (1976), 75.
[7] Spiritual Canticle, 36, 10.
[8] Adversus Haereses, IV, c. 34, n. 1: PG 7, pars prior, 1083: “Omnem novitatem attulit, semetipsum afferens”.
[9] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 7: AAS 68 (1976), 9.
[10] Cf. Propositio 7.
[11] BÊNÊDICTÔ XVI, Bài giảng Thánh Lễ Bế Mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục (28-10-2012): AAS 104 (2102), 890.
[12] Ibid.
[13] BÊNÊDICTÔ XVI, Bài giảng Thánh Lễ Khai Mạc Hội Nghị Khoáng Đại Lần Thứ V của các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và Caribê (13-5-2007), Aparecida, Brazil: AAS 99 (2007), 437.
[14] Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990), 34: AAS 83 (1991), 280.
[15] Ibid., 40: AAS 83 (1991), 287.
[16] Ibid., 86: AAS 83 (1991), 333.
[17] HỘI NGHỊ KHOÁNG ĐẠI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn kiện Aparecida, 29-6-2007, 548.
[18] Ibid., 370.
[19] Cf. Propositio 1.
[20] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988), 32: AAS 81 (1989) 451.
[21] HỘI NGHỊ KHOÁNG ĐẠI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn kiện Aparecida, 29-6-2007, 201.
[22] Ibid., 551.
[23] PHAOLÔ VI, Thông Điệp Ecclesiam Suam (6-8-1964), 9, 10, 11: AAS 56 (1964), 611-612.
[24] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio, 6.
[25] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Oceania (22-11-2001), 19: AAS 94 (2002), 390.
[26] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988), 26: AAS 81 (1989), 438.
[27] Cf. Propositio 26.
[28] Cf. Propositio 44.
[29] Cf. Propositio 26.
[30] Cf. Propositio 41.
[31] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ của Giám Mục Christus Dominus, 11.
[32] Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ nhân Kỷ Niệm 40 Năm Sắc Lệnh Ad Gentes (11-3-2006): AAS 98 (2006), 337.
[33] Cf. Propositio 42.
[34] Cf. Giáo Luật 460-468; 492-502; 511-514; 536-537.
[35] Thông Điệp Ut Unum Sint (25-5-1995), 95: AAS 87 (1995), 977-978.
[36] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 23.
[37] GIOAN PHAOLÔ II, Tự Sắc Apostolos Suos (21-5-1998): AAS 90 (1998), 641-658.
[38] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio, 11.
[39] Cf. S. Th., I-II, q. 66, a. 4-6.
[40] S. Th., I-II, q. 108, a. 1.
[41] “Chúng ta thờ phượng Thiên Chúa không phải bằng những lễ vật hay những quà tặng vật chất cho Người, nhưng đúng hơn là cho chúng ta và cho tha nhân. Thiên Chúa không cần các lễ vật của chúng ta, nhưng Người đòi chúng ta dâng những lễ vật ấy để tôn thờ Người và để mang lại lợi ích cho anh chị em chúng ta. Đối với Người, lòng thương xót là lễ vật đẹp lòng Chúa nhất, vì nó có sức khắc phục các khiếm khuyết trong việc tôn thờ và trong lễ vật của chúng ta, và vì hơn tất cả các thứ khác, lòng thương xót tìm kiếm lợi ích cho đồng loại của chúng ta” (S. Th., II-II, q. 30, a. 4, ad 1).
[42] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Mặc Khải Dei Verbum, 12.
[43] Tự Sắc Socialium Scientiarum (1-1-1994): AAS 86 (1994), 209.
[44] Thánh Tôma Aquinô cắt nghĩa rằng số lượng lớn các tạo vật và sự đa dạng của chúng “là ý muốn của tác nhân đệ nhất”, Người muốn rằng “cái gì mà một cá thể còn thiếu để phản chiếu sự tốt lành của Thượng Đế thì được bù lại bởi các cá thể khác”, vì sự tốt lành của Tạo Hoá “không thể được phản chiếu đầy đủ bởi chỉ một tạo vật mà thôi” (S. Th., I, q. 47, a. 1). Vì vậy chúng ta cần hiểu rõ sự đa dạng của các chủng loại trong các mối liên hệ của chúng với nhau (cf. S. Th., I, q. 47, a. 2, ad 1; q. 47, a. 3). Tương tự, chúng ta cần lắng nghe và bổ sung cho nhau trong nhận thức cục bộ của chúng ta về thực tại và về Tin Mừng.
[45] GIOAN XXIII, Diễn từ Khai Mạc Công Đồng Vaticanô II (11-10-1962): AAS 54 (1962), 792: “Est enim aliud ipsum depositum fidei, seu veritates, quae veneranda doctrina nostra continentur, aliud modus, quo eaedem enuntiantur”.
[46] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Ut Unum Sint (25-5-1995), 19: AAS 87 (1995), 933.
[47] S. Th., I-II, q. 107, a. 4.
[48] Ibid.
[49] Số 1735.
[50] Cf. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Familiaris Consortio (22-11-1981), 34: AAS 74 (1982), 123.
[51] Cf. THÁNH AMBROSIÔ, De Sacramentis, IV, 6, 28: PL 16, 464: “Tôi phải luôn luôn lãnh nhận bí tích này để được tha thứ tội lỗi. Nếu tôi liên tục phạm tội, tôi phải có thuốc chữa”; ID., op. cit., IV, 5, 24: PL 16, 463: “Những người ăn manna đều đã chết; những ai ăn thánh thể này sẽ được ơn tha các tội của họ”; SAINT CYRIL OF ALEXANDRIA, In Joh. Evang., IV, 2: PG 73, 584-585: “Tôi xét mình và thấy mình bất xứng. Với những người nói như vậy, tôi nói: Vậy khi nào bạn sẽ xứng đáng? Khi cuối cùng bạn ra trình diện trước toà Chúa Kitô ư? Vậy nếu các tội lỗi ngăn cản bạn không đến gần [Ngài] và bạn không bao giờ ngưng phạm tội – vì như Thánh Vịnh nói, ‘nào ai biết lỗi của mình?’ – bạn sẽ tiếp tục không dự phần vào ơn thánh hoá ban sự sống đời đời sao?”
Bài này đã được xem 1055 lần!