TÔNG HUẤN NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – EVANGELII GAUDIUM

45. Vì vậy ta thấy công việc loan báo Tin Mừng hoạt động trong các giới hạn của ngôn ngữ và hoàn cảnh. Công việc này không ngừng tìm cách thông truyền sự thật của Tin Mừng một cách hiệu quả hơn trong một bối cảnh nhất định, không từ bỏ sự thật, sự thiện và ánh sáng mà nó có thể đem đến bất cứ nơi nào không thể có sự hoàn thiện. Một con tim truyền giáo ý thức về những giới hạn này và làm cho mình trở nên “yếu với người yếu… mọi sự cho mọi người” (1Cr 9:22). Nó không bao giờ đóng kín mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ chọn thái độ cố chấp hay tự vệ. Nó hiểu rằng nó phải gia tăng sự hiểu biết của mình về Tin Mừng và nhận ra các đường lối của Thần Khí, vì vậy nó luôn luôn làm bất cứ điều tốt lành nào có thể, dù trên đường đi, chân nó có thể bị lấm bùn.

V. NGƯỜI MẸ VỚI TRÁI TIM RỘNG MỞ

46. Một Hội Thánh “đi ra” là một Hội Thánh mở cửa. Đến với người khác để tới được các biên giới của loài người không có nghĩa là vội vã lao vào thế giới mà không có mục tiêu. Thường thì tốt hơn là nên đi từ từ, hãm bớt sự phấn khích của mình để nhìn và nghe người khác, không nhảy vội từ chuyện này sang chuyện khác, và nên ở lại bên cạnh người đã ngã dọc đường. Thỉnh thoảng chúng ta phải giống như người cha của đứa con hoang đàng, luôn luôn để cửa mở hầu khi đứa con trở về, nó có thể vào ngay trong nhà.

47. Hội Thánh được kêu gọi trở thành Nhà Cha, luôn luôn mở rộng cửa. Một dấu hiệu của sự mở ra này là các nhà thờ của chúng ta phải luôn luôn mở cửa, để nếu có ai được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đến đây tìm Thiên Chúa, họ sẽ không thấy cửa nhà thờ đang đóng. Cũng có những cửa khác không được đóng. Mọi người có thể tham dự một cách nào đó vào đời sống của Hội Thánh; mọi người có thể là thành phần của cộng đoàn, và các cửa của bí tích cũng không được đóng vì bất cứ lý do gì. Điều này đặc biệt đúng đối với bí tích được gọi là “cửa”: bí tích Rửa Tội. Bí tích Thánh Thể, tuy là sự sung mãn của đời sống bí tích, nhưng không phải là một phần thưởng cho người hoàn thiện, mà là một phương thuốc và lương thực cho người yếu đuối.[51] Các xác tín này có những hệ quả mục vụ mà chúng ta cần phải xem xét một cách thận trọng và mạnh dạn. Chúng ta nhiều khi hành động như là người ban phát ân sủng thay vì là người tạo điều kiện cho ân sủng. Nhưng Hội Thánh không phải là một trạm thu phí; Hội Thánh là Nhà Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ.

48. Nếu toàn thể Hội Thánh chấp nhận động lực truyền giáo mới này, Hội Thánh phải đến với mọi người, không loại trừ một ai. Nhưng phải đến với ai trước? Khi đọc Tin Mừng, chúng ta thấy một dấu hiệu rõ ràng: không phải những bạn bè và láng giềng giàu có của chúng ta, nhưng trên hết là những người nghèo khổ bệnh tật, những người thường bị khinh dể và ruồng rẫy, những người “không có gì để trả lại ngươi” (Lc 14:14). Không có chỗ cho sự hoài nghi hay những lời giải thích vốn chỉ làm yếu đi một sứ điệp rõ ràng như thế. Hôm nay và mãi mãi, “người nghèo là những người ưu tiên được đón nhận Tin Mừng”,[52] và việc Tin Mừng được tự do rao giảng cho họ là dấu chỉ về vương quốc mà Chúa Giêsu đến để thiết lập. Chúng ta phải nói thẳng ra rằng “có một dây liên kết không thể phân ly giữa đức tin của chúng ta và người nghèo”. Chúng ta đừng bao giờ bỏ họ.

49. Vì vậy chúng ta hãy đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Ở đây tôi lặp lại cho toàn thể Hội Thánh điều tôi từng nói cho các linh mục và giáo dân ở Buenos Aires: Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục. Nếu có cái gì đáng phải khiến chúng ta trăn trở và áy náy lương tâm, thì đó chính là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ họ, không tìm thấy ý nghĩa và mục tiêu trong đời. Tôi mong rằng, thay vì sợ đi lạc, chúng ta nên sợ bị giam hãm trong những cấu trúc làm cho chúng ta có một cảm giác an toàn giả tạo, những qui tắc biến chúng ta thành những quan toà tàn nhẫn, với những thói quen làm chúng ta cảm thấy an thân, trong khi ở ngoài cửa người ta đang chết đói và Đức Giêsu không ngừng nói với chúng ta: “Anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6:37).

CHƯƠNG HAI – GIỮA CƠN KHỦNG HOẢNG VỀ DẤN THÂN
CỘNG ĐỒNG

50. Trước khi bàn về một số vấn đề liên quan tới công cuộc loan báo Tin Mừng, tôi nghĩ nên vắn tắt nhắc đến bối cảnh trong đó tất cả chúng ta đang phải sống và làm việc. Ngày nay chúng ta thường xuyên nghe nói đến một hiện tượng “quá tải chẩn đoán” mà không luôn luôn kèm theo những phương pháp điều trị tương ứng trong thực tế. Một phân tích thuần tuý xã hội học muốn gói trọn toàn thể thực tại bằng phương pháp gọi là trung lập và lâm sàng cũng chẳng giúp gì được cho chúng ta. Cái mà tôi muốn đề nghị là một phương pháp phù hợp hơn với nhận thức Tin Mừng. Đó là phương pháp của người môn đệ truyền giáo, một phương pháp “được nuôi dưỡng bởi ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần”.[53]

51. Nhiệm vụ của giáo hoàng không phải là cung cấp một phân tích chi tiết và đầy đủ về thực tại ngày nay, nhưng tôi khuyến khích mọi cộng đoàn “luôn tỉnh táo dò xét các dấu chỉ của thời đại”.[54] Đây thực sự là một trách nhiệm nặng nề, vì một số thực tại ngày nay, nếu không được xử lý hiệu quả, sẽ có thể mở đường cho các tiến trình phi nhân hoá mà sau này sẽ khó có khả năng đảo ngược. Chúng ta cần phân biệt rõ cái gì có thể là kết quả của Nước Thiên Chúa với cái gì đi ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa. Điều này không những bao gồm việc nhận ra và phân biệt các loại thần trí, nhưng cũng bao gồm việc chọn lấy các tác động của thần lành và từ chối các tác động của thần dữ. Tôi mặc nhiên nhìn nhận các phân tích khác nhau mà các văn kiện khác của huấn quyền Hội Thánh đã cống hiến, cũng như các văn kiện mà các hội đồng giám mục cấp vùng và cấp quốc gia đã đề nghị. Trong Tông Huấn này, tôi chỉ muốn trình bày một cách vắn tắt và từ quan điểm mục vụ, một số nhân tố có thể cản trở hay làm suy yếu động lực canh tân truyền giáo trong Hội Thánh, hoặc là vì chúng đe doạ sự sống và phẩm giá của Dân Thiên Chúa, hay vì chúng tác động tới những người trực tiếp tham gia vào các tổ chức của Hội Thánh và vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh.

I. CÁC THÁCH THỨC CỦA THẾ GIỚI HÔM NAY

52. Ở thời đại chúng ta, nhân loại đang trải qua một bước ngoặt trong lịch sử của mình, như chúng ta có thể thấy từ các tiến bộ đang được thực hiện trong rất nhiều lãnh vực. Chúng ta không thể không ca ngợi các bước đi đang được thực hiện để cải thiện phúc lợi của dân chúng trong các lãnh vực như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và truyền thông. Nhưng đồng thời chúng ta phải nhớ rằng đa số dân chúng bây giờ sống ngày nào biết ngày ấy, với những viễn tượng đáng sợ. Một số dịch bệnh đang lan rộng. Tâm hồn nhiều người bị xâm chiếm bởi nỗi sợ hãi và thất vọng, ngay cả ở những nước được cho là giàu có. Niềm vui sống thường xuyên phai nhạt, thiếu tôn trọng người khác, và nạn bạo lực ngày càng nhiều, tình trạng bất bình đẳng cũng gia tăng. Người ta đấu tranh để sống, và thường là sống với phẩm giá tối thiểu. Thay đổi của thời đại đã được khởi động bởi những tiến bộ khổng lồ, mau chóng và tích luỹ về phẩm và lượng trong các khoa học và kỹ thuật và được đem áp dụng ngay vào các lãnh vực khác nhau của tự nhiên và đời sống. Chúng ta đang ở một thời đại tri thức và thông tin, dẫn tới các hình thức quyền lực mới và thường là không được gọi tên.

Nói không với một nền kinh tế loại trừ

53. Cũng như giới răn “Chớ giết người” đặt ra một giới hạn rõ ràng để bảo vệ giá trị của sự sống con người, ngày nay chúng ta cũng phải nói “Không” với một nền kinh tế loại trừ và bất bình đẳng. Một nền kinh tế như thế cũng giết chết. Sao có thể khi một người vô gia cư chết vì không được che chở thì không được kể là một tin tức, trong khi thị trường chứng khoán mất hai điểm thì lại là tin tức? Đây là một trường hợp loại trừ. Chúng ta có thể điềm nhiên đứng nhìn khi lương thực bị đổ đi trong khi có những người đang đói? Đây là một trường hợp bất bình đẳng. Ngày nay mọi thứ đều theo luật cạnh tranh và luật sinh tồn của kẻ thích hợp nhất, ở đó những kẻ có quyền lực chèn ép những người yếu. Hậu quả là vô số người bị loại trừ và bị gạt ra bên lề: không việc làm, không phương tiện, không có bất kỳ lối thoát nào.

Chính con người cũng bị coi là món hàng tiêu thụ sử dụng rồi vứt bỏ. Chúng ta đã tạo ra một văn hoá “vứt bỏ” hiện đang lan rộng. Không còn đơn thuần là vấn đề bóc lột và áp bức, mà là một vấn đề mới. Rốt cuộc thái độ loại trừ làm thay đổi ý nghĩa của tư cách là thành phần của xã hội chúng ta đang sống; những người bị loại trừ không còn là phần phụ thuộc hay bên lề hay bị tước quyền trong xã hội – họ thậm chí không còn là thành phần của xã hội nữa! Những người bị loại trừ không phải là những người “bị bóc lột” mà là những người bị gạt ra ngoài, những “đồ thừa”.

54. Trong bối cảnh này, một số người vẫn còn tiếp tục bênh vực các lý thuyết kiểu “lọt sàng xuống nia”, cho rằng sự tăng trưởng kinh tế, được khuyến khích bởi thị trường tự do, tự nó sẽ thành công trong việc tạo ra công bằng và sự bao gồm nhiều hơn trong xã hội. Ý kiến này chưa bao giờ được thực tế xác nhận, nó diễn tả một niềm tin thô thiển và ngây thơ vào lòng tốt của những người nắm giữ quyền lực kinh tế và các thao tác được thần thánh hoá của hệ thống kinh tế chủ đạo. Trong khi đó những người bị loại trừ vẫn đang chờ đợi. Để duy trì một lối sống loại trừ người khác, hay duy trì sự phấn khích với lý tưởng ích kỷ ấy, một hiện tượng toàn cầu hoá của sự dửng dưng đã phát triển. Hầu như vô tình, rốt cuộc chúng ta trở nên vô cảm trước tiếng kêu của người nghèo, không còn có thể khóc trước nỗi đau của người khác hay cảm thấy cần cứu giúp họ, coi như tất cả đều là trách nhiệm của một ai khác chứ không phải của chính chúng ta. Văn hoá của sự thịnh vượng làm chúng ta mất đi sự mẫn cảm; chúng ta phấn khích nếu thị trường cung cấp cho chúng ta một món hàng mới; trong khi tất cả những mảnh đời cằn cỗi vì thiếu cơ hội có vẻ chỉ là một cảnh tượng bình thường, không hề làm chúng ta mủi lòng.

Nói không với ngẫu thần mới là tiền bạc

55. Một nguyên nhân của tình huống này được thấy trong mối quan hệ của chúng ta với tiền bạc, vì chúng ta thản nhiên chấp nhận sự thống trị của nó trên chúng ta và các xã hội của chúng ta. Cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay có thể làm chúng ta không để ý tới sự kiện nó phát sinh trong một khủng hoảng sâu xa về con người: sự chối bỏ địa vị tối thượng của con người! Chúng ta đã tạo ra các ngẫu thần mới. Việc thờ con bò vàng thời xưa (xem Xh 32:1-35) nay đã trở lại dưới một dạng mới và sống sượng là việc sùng bái ngẫu thần tiền bạc và sự chuyên chế của một nền kinh tế phi nhân không có một mục đích nhân bản đích thực. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh toàn cầu bộc lộ rõ sự mất thăng bằng và trên hết là sự thiếu quan tâm đối với con người; con người bị giản lược vào một nhu cầu duy nhất của họ mà thôi: tiêu thụ.

56. Trong khi thu nhập của một thiểu số tăng theo cấp số nhân, thì hố ngăn cách giữa đa số với một thiểu số được hưởng sự thịnh vượng cũng tăng theo cấp số nhân. Tình trạng chênh lệch này là kết quả của các hệ tư tưởng muốn bảo vệ sự độc lập tuyệt đối của thị trường và đầu cơ tài chánh. Hậu quả là chúng phủ nhận mọi quyền kiểm soát của các nhà nước vốn có trách nhiệm lo cho công ích. Thế là sinh ra một thứ chuyên chế mới, vô hình và thường là hư hư ảo ảo, nó đơn phương và tàn nhẫn áp đặt những luật pháp và qui tắc riêng của nó. Các món nợ và lãi tích luỹ cũng làm cho các quốc gia khó thể hiện tiềm năng nền kinh tế riêng của họ để giúp các công dân nước họ được hưởng sức mua thực sự của họ. Cũng còn phải kể thêm tình trạng tham nhũng và trốn thuế tràn lan vì ích kỷ, nay đã ở cấp độ toàn cầu. Khát vọng quyền lực và của cải là vô giới hạn. Trong hệ thống này, với khuynh hướng dẫm nát bất cứ cái gì cản trở sự gia tăng lợi nhuận, thì những thực tại mong manh, như môi trường chẳng hạn, hoàn toàn không có khả năng tự vệ trước những lợi ích của một thị trường được thần thánh hoá và trở thành qui luật duy nhất.

Nói không với một hệ thống tài chánh thống trị thay vì phục vụ

57. Đằng sau thái độ này ẩn chứa một sự chối bỏ đạo đức và chối bỏ Thiên Chúa. Đạo đức được nhìn với con mắt khinh bỉ chế nhạo. Người ta coi đạo đức là phi sản xuất, quá nhân đạo, vì nó coi tiền bạc và quyền lực là cái gì tương đối. Người ta cảm thấy nó là một mối đe doạ, vì nó kết án những hành vi thao túng và hạ thấp phẩm giá con người. Trên thực tế, đạo đức dẫn con người tới Thiên Chúa, Đấng kêu gọi một lời đáp dấn thân vượt ra ngoài các phạm trù của thị trường. Khi thị trường được coi là tuyệt đối, thì người ta chỉ có thể coi Thiên Chúa như là cái gì không kiểm soát được, không quản lý được, thậm chí nguy hiểm, vì Thiên Chúa kêu gọi con người thể hiện đầy đủ bản thân và tự do khỏi mọi hình thức nô lệ. Đạo đức – một thứ đạo đức phi ý thức hệ – có thể đem lại sự cân bằng và một trật tự xã hội nhân đạo hơn. Với những ý tưởng này, tôi khuyến khích các chuyên gia tài chánh và các chính khách suy gẫm những lời của các bậc hiền nhân thời xưa: “Không chia sớt của cải với người nghèo là ăn cắp của họ và lấy đi kế sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải của riêng chúng ta, mà là của họ”.[55]

58. Một sự cải cách tài chánh theo các suy tư đạo đức như thế đòi hỏi các nhà lãnh đạo chính trị phải thay đổi mạnh mẽ cách tiếp cận. Tôi khuyến khích họ đối diện với thách thức này bằng sự quyết tâm và một cái nhìn về tương lai, đồng thời không bỏ qua những yếu tố cụ thể của từng trường hợp. Tiền phải phục vụ, không phải cai trị! Giáo hoàng yêu thương mọi người, người giàu cũng như người nghèo, nhưng ngài buộc phải nhân danh Đức Kitô nhắc nhở mọi người rằng những người giàu phải giúp đỡ, tôn trọng và thăng tiến người nghèo. Tôi khuyên anh chị em có tình liên đới quảng đại và đưa kinh tế và tài chánh trở về với một phương thức đạo đức phục vụ lợi ích con người.

Nói không với tình trạng bất bình đẳng, nguồn gốc của bạo lực

59. Ngày nay tại nhiều nơi chúng ta nghe thấy tiếng kêu gọi phải có an ninh hơn. Nhưng bao lâu tình trạng loại trừ và bất bình đẳng trong xã hội còn chưa được đảo ngược, thì không thể nào xoá bỏ bạo lực. Người nghèo và các dân tộc nghèo bị tố cáo sử dụng bạo lực, nhưng nếu không có các cơ hội bình đẳng thì các hình thức gây hấn và xung đột khác nhau sẽ tìm được mảnh đất mầu mỡ để phát triển và bùng nổ. Khi một xã hội – địa phương, quốc gia, hay thế giới – muốn gạt ra bên lề một thành phần của mình, thì không một chương trình hay nguồn lực chính trị nào dành cho việc thực thi pháp luật hay các hệ thống giám sát có thể bảo đảm vĩnh viễn sự an bình. Không chỉ đơn giản vì sự bất bình đẳng khơi dậy một phản ứng bạo lực từ những người bị loại trừ khỏi hệ thống, nhưng là vì hệ thống kinh tế-xã hội là bất công tận gốc. Cũng như sự tốt lành có xu hướng lan toả, việc dung túng sự ác, nghĩa là bất công, có khuynh hướng mở rộng ảnh hưởng độc hại của nó và âm thầm huỷ hoại mọi hệ thống chính trị và xã hội, bất kể hệ thống ấy có vẻ vững chắc đến đâu. Nếu mọi hành động đều có những hậu quả của chúng, thì một sự ác nằm trong các cơ cấu của một xã hội cũng có một tiềm năng phá hoại và huỷ diệt lâu dài. Nó chính là sự xấu được kết tinh trong những cơ cấu xã hội bất công, và không thể là cơ sở để hi vọng một tương lai tốt đẹp hơn. Chúng ta còn ở xa cái gọi là “tận cùng của lịch sử”, vì các điều kiện cho một sự phát triển bền vững và hoà bình vẫn chưa được thấy rõ và thể hiện đầy đủ.

Bài này đã được xem 1069 lần!

Pages ( 4 of 20 ): <123 4 56 ... 20>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]