TÔNG HUẤN NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG – EVANGELII GAUDIUM

75. Chúng ta không thể làm ngơ trước sự kiện tại các thành phố đang diễn ra nạn buôn người, buôn bán chất ma tuý, lạm dụng và bóc lột trẻ em, quên lãng người già và người tàn tật, và nhiều hình thức tham nhũng và hoạt động tội phạm. Đồng thời, những nơi mà lẽ ra phải là chỗ gặp gỡ và liên kết thì thường lại trở thành những nơi cách ly và nghi kỵ lẫn nhau. Các nhà cửa và các khu láng giềng thường được xây dựng để có thể cách ly và bảo vệ hơn là để liên kết và hoà hợp. Rao giảng Tin Mừng sẽ là một cơ sở để khôi phục phẩm giá con người trong những bối cảnh này, vì Chúa Giêsu muốn tuôn đổ dồi dào sự sống xuống các thành phố của chúng ta (xem Ga 10:10). Ý nghĩa thống nhất và đầy đủ của đời sống con người mà Tin Mừng đề nghị là phương thuốc cho những căn bệnh của các đô thị chúng ta, mặc dù chúng ta phải nhìn nhận rằng một chương trình đồng nhất và cứng nhắc về Phúc-Âm-hoá thì không phù hợp với thực tại phức tạp này. Nhưng chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu tốt hơn và mang lại lợi ích cho các đô thị nếu chúng ta sống trọn vẹn đời sống con người và đối diện với mọi thách thức như là men để làm chứng cho Tin Mừng trong mọi nền văn hoá và mọi đô thị.

II. THÁCH THỨC CHO NGƯỜI HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ

76. Tôi vô cùng biết ơn tất cả những người đang dấn thân hoạt động trong Hội Thánh và cho Hội Thánh. Ở đây tôi không muốn đi vào chi tiết các hoạt động của những người hoạt động mục vụ khác nhau, từ các giám mục xuống tới những người cung cấp các việc phục vụ âm thầm và khiêm tốn nhất. Đúng hơn, tôi muốn suy tư về những thách thức mà tất cả họ phải đối diện trong bối cảnh văn hoá toàn cầu hoá hiện nay. Nhưng một cách công tâm, tôi phải nói trước tiên rằng sự đóng góp của Hội Thánh trong thế giới hôm nay là vô cùng to lớn. Nỗi đau và sự xấu hổ chúng ta cảm thấy vì tội lỗi của một số thành viên của Hội Thánh, và tội lỗi của chính chúng ta, không bao giờ được làm chúng ta quên rằng có vô số người Kitô hữu đang hiến dâng cuộc đời mình trong hi vọng. Họ giúp biết bao nhiêu người được khỏi bệnh hay được chết trong bình an tại các bệnh viện tạm bợ. Họ hiện diện với những người mắc các tật nghiện ngập khác nhau tại những nơi nghèo khổ nhất trên thế giới. Họ hiến mình cho việc giáo dục các trẻ em và thanh niên. Họ chăm sóc những người già không được ai lo cho. Họ tìm cách thông truyền những giá trị trong các môi trường thù nghịch. Họ dấn thân bằng những cách thức khác nhau để chứng tỏ một tình thương vô biên đối với nhân loại được khơi dậy bởi vị Thiên Chúa làm người. Tôi biết ơn vì gương sáng tôi nhận được từ rất nhiều Kitô hữu khi họ vui vẻ hi sinh cuộc đời và thời giờ của họ. Những chứng tá này an ủi và nâng đỡ tôi trong cố gắng của chính mình để khắc phục tính ích kỷ và để tôi hiến mình trọn vẹn hơn.

77. Tuy nhiên, là những đứa con của thời đại này, tất cả chúng ta một cách nào đó cũng chịu ảnh hưởng bởi nền văn hoá toàn cầu hoá hôm nay, nó cho chúng ta những giá trị và khả thể mới, nhưng cũng có thể hạn chế, chi phối và rốt cuộc làm hại chúng ta. Tôi ý thức rằng chúng ta cần tạo ra những khoảng không gian mới trong đó những người hoạt động mục vụ có thể tìm được sự giúp đỡ và chữa trị, “những nơi mà chính đức tin vào Chúa Giêsu chết và phục sinh được canh tân, những nơi mà các vấn đề sâu xa nhất và các mối quan tâm hằng ngày được chia sẻ, nơi mà nhận thức sâu xa hơn về các kinh nghiệm của chúng ta và chính đời sống được thực hiện trong ánh sáng Tin Mừng, vì mục đích định hướng các quyết định của cá nhân và xã hội tới cái tốt và cái đẹp”.[62] Đồng thời, tôi muốn kêu gọi chú ý tới một số cám dỗ đặc biệt ảnh hưởng tới những người hoạt động mục vụ.

Nói có với thách thức của một linh đạo truyền giáo

78. Chúng ta hôm nay đang thấy nơi nhiều người hoạt động mục vụ, gồm cả những người sống đời thánh hiến, nam cũng như nữ, một sự quan tâm quá mức về tự do và sự thoải mái của bản thân họ, khiến họ coi công việc của họ như chỉ là một cái gì phụ thuộc chứ không phải một thành phần thuộc căn tính của họ. Đồng thời, đời sống thiêng liêng trở nên bị đồng hoá với một ít việc thực hành tôn giáo có thể đem lại một sự an ủi nào đó chứ không khuyến khích việc gặp gỡ người khác, dấn thân vào thế giới hay một niềm say mê loan báo Tin Mừng. Kết quả là chúng ta thấy nhiều người hoạt động rao giảng Tin Mừng, tuy họ vẫn cầu nguyện, nhưng có một lối sống rất cá nhân chủ nghĩa, một sự khủng hoảng căn tính và nhiệt tình trở nên nguội lạnh. Ba điều xấu này tác động lẫn nhau.

79. Có những lúc nền văn hoá truyền thông của chúng ta và một số giới trí thức truyền đi một chủ nghĩa hoài nghi rất mạnh đối với sứ điệp của Hội Thánh, cùng với những chỉ trích giễu cợt. Hậu quả là nhiều nhà hoạt động mục vụ, mặc dù họ cầu nguyện, nhưng ngày càng thêm mặc cảm tự ti dẫn họ tới thái độ tương đối hoá căn tính và các niềm tin Kitô giáo của họ. Điều này tạo ra một cái vòng luẩn quẩn. Rốt cuộc họ cảm thấy không hài lòng với bản thân họ và với công việc họ làm; họ không đồng hoá mình với sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình và điều này làm suy yếu sự dấn thân của họ. Tình trạng này cuối cùng bóp nghẹt niềm vui truyền giáo bằng một thứ ám thị rằng họ cứ sống như mọi người và có tất cả những gì người khác có. Như thế hoạt động rao giảng Tin Mừng của họ trở thành bị ép buộc, họ dành rất ít công sức và thời gian cho công việc này.

80. Các nhà hoạt động mục vụ như thế có thể rơi vào một thứ chủ nghĩa tương đối còn nguy hiểm hơn chủ nghĩa tương đối lý thuyết, bất kể phong cách linh đạo hay tư duy riêng của họ là gì. Nó chạm tới các quyết định thâm sâu và riêng tư nhất định hình lối sống của họ. Chủ nghĩa tương đối thực tế này hệ tại việc hành động như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thực hiện các quyết định như thể người nghèo không tồn tại, đề ra các mục tiêu như thể người khác không tồn tại, hoạt động như thể không có sự tồn tại của những người chưa đón nhận Tin Mừng. Đáng ngạc nhiên là những người rõ ràng từng có những xác tín học thuyết và thiêng liêng vững chắc cũng thường rơi vào một lối sống bám víu vào sự an toàn về tài chánh, hay một ước muốn quyền lực và danh vọng bằng bất cứ giá nào, thay vì hiến mình truyền giáo cho tha nhân. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm say mê truyền giáo!

Nói không với ích kỷ và nguội lạnh thiêng liêng

81. Khi mà chúng ta đang cần nhiều nhất một năng động truyền giáo để đem muối và ánh sáng cho đời, thì nhiều giáo dân lại sợ rằng có thể họ sẽ được yêu cầu đảm nhận một hoạt động tông đồ nào đó, và họ tìm cách tránh né mọi trách nhiệm có thể lấy mất thì giờ rảnh rỗi của họ. Ví dụ, ngày nay tại các giáo xứ thật khó tìm được những giáo lý viên đã được huấn luyện mà sẵn sàng kiên trì trong công việc này trong một thời gian dài. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các linh mục sợ mất thời giờ rảnh rỗi của mình. Lý do thường là vì người ta cảm thấy nhu cầu quá mạnh muốn bảo vệ sự tự do riêng của họ, họ coi nhiệm vụ loan báo Tin Mừng như thể là một chất độc nguy hiểm thay vì là một lời đáp hân hoan trước tình yêu của Thiên Chúa mời gọi chúng ta truyền giáo, hoàn thiện bản thân và sinh hoa kết quả. Một số người hoàn toàn từ chối hiến thân cho truyền giáo và rốt cuộc đi đến một tình trạng tê liệt và nhàm chán thiêng liêng.

82. Vấn đề không luôn luôn ở chỗ quá nhiều hoạt động, nhưng là hoạt động được thực hiện không tốt, không có động lực thích hợp, không có một linh đạo thấm nhuần hoạt động ấy và làm cho nó thú vị. Kết quả là hoạt động trở nên mệt nhọc quá mức, nhiều khi dẫn tới bệnh tật. Thay vì cảm thấy mệt nhưng vui và thoả mãn, người ta cảm thấy căng thẳng, nặng nề, không thoả mãn và rốt cuộc là không chịu đựng nổi. Nhàm chán mục vụ có thể đến từ một số nguyên nhân. Một số người rơi vào tình trạng này vì họ lao mình vào những kế hoạch không thực tế và không thoả mãn với những gì họ có thể làm hợp với sức của họ. Số khác vì họ thiếu kiên nhẫn để cho phép các tiến trình chín muồi; họ muốn đạt mọi sự ngay tức khắc. Số khác vì họ bám chặt vào một số ít dự án hay ước mơ thành công vô bổ. Số khác nữa vì họ đã mất tiếp xúc thực tế với dân và quá vật chất hoá công việc của họ khiến họ quan tâm nhiều tới bản đồ lộ trình hơn là tới chính cuộc hành trình. Cũng có người rơi vào nhàm chán vì họ không thể đợi; họ muốn làm chủ nhịp độ đời sống. Mối ám ảnh ngày nay với những kết quả tức thời khiến các nhà hoạt động mục vụ khó chấp nhận bất cứ điều gì có chút dính dáng tới những ý kiến bất đồng, thất bại, chỉ trích hay thập giá.

83. Thế là mối đe dọa lớn nhất từ từ hình thành: “chủ nghĩa thực dụng màu xám của đời sống hằng ngày của Hội Thánh, trong đó mọi sự có vẻ diễn tiến bình thường, nhưng trên thực tế đang hao mòn dần và rơi xuống tình trạng thiển cận”.[63] Bằng cách này một tâm lý nấm mồ phát triển và từ từ biến những người Kitô hữu thành những xác ướp trong một viện bảo tàng. Vỡ mộng với thực tế, với Hội Thánh và với bản thân mình, họ trải nghiệm một cám dỗ ở lại trong một thái độ u buồn vô vọng, níu kéo con tim như “liều thuốc quí nhất của quỉ”.[64] Vốn được kêu gọi toả ánh sáng và truyền sự sống, rốt cuộc họ bị giữ chặt trong những cái chỉ sinh ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm và dần dần làm tan đi mọi nhiệt tình tông đồ. Về tất cả chuyện này, tôi lặp lại: Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng!

Nói không với thái độ bi quan vô bổ

84. Niềm vui của Tin Mừng là cái không ai hay điều gì có thể lấy mất được của chúng ta (xem Ga 16:22). Những điều xấu của thế giới – và của Hội Thánh – không thể là cái cớ để chúng ta giảm bớt sự dấn thân và nhiệt tình. Chúng ta hãy coi chúng như là những thách thức có thể giúp chúng ta lớn lên. Với con mắt đức tin, chúng ta có thể thấy ánh sáng mà Chúa Thánh Thần luôn luôn chiếu dọi giữa bóng tối, đồng thời không bao giờ quên rằng “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Đức tin của chúng ta được thách thức để biết rằng nước có thể biến thành rượu như thế nào và lúa mì có thể mọc giữa cỏ dại ra sao. Năm mươi năm sau Công Đồng Vaticanô II, sự đau buồn vì những rắc rối của thời đại không cho phép chúng ta có một sự lạc quan ngây thơ, thế nhưng thái độ thực tế hơn của chúng ta không được có nghĩa là chúng ta ít tin cậy vào Thần Khí hay ít quảng đại hơn. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nghe lại một lần nữa những lời của Chân Phước Gioan XXIII vào ngày đáng nhớ 11 tháng 10 năm 1962: “Đôi khi chúng ta ân hận khi phải nghe những tiếng nói của những người thiếu thận trọng và thiếu chừng mực, mặc dù họ cháy bỏng nhiệt tình. Trong thời đại hôm nay, họ không nhìn thấy gì khác ngoài sự bấp bênh và tàn phá… Chúng ta thấy không thể đồng tình với những nhà tiên tri của thảm hoạ, những người luôn luôn tiên báo có thảm hoạ, như thể ngày tận thế đã tới gần. Ở thời đại chúng ta, Chúa Quan Phòng đang đưa chúng ta tới một trật tự mới của các mối tương quan giữa con người; nhờ sự cố gắng của con người và thậm chí vượt quá mọi mong đợi, các mối tương quan này được qui hướng tới sự hoàn thành các ý định cao cả và khôn dò của Thiên Chúa, trong đó mọi sự, kể cả các thất bại của con người, đều dẫn tới lợi ích lớn hơn cho Hội Thánh”.[65]

85. Một trong những cám dỗ nghiêm trọng nhất bóp nghẹt tính táo bạo và nhiệt tình là thái độ chủ bại, biến chúng ta thành những con người bi quan ưa than vãn và thất vọng, rầu rĩ. Không ai có thể ra trận nếu không hoàn toàn tin chắc vào chiến thắng. Nếu bắt đầu chiến đấu mà không tin tưởng, chúng ta đã thua một nửa cuộc chiến và chôn vùi tài năng của mình. Mặc dù đau đớn khi ý thức về sự yếu đuối của mình, chúng ta phải tiến lên mà không đầu hàng, luôn ghi nhớ lời Chúa nói với Thánh Phaolô: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12:9). Chiến thắng của người Kitô hữu luôn luôn là một thập giá, nhưng thập giá này đồng thời là một cờ hiệu chiến thắng mà chúng ta mang với sự dịu dàng xông xáo chống lại những cuộc tấn công của sự dữ. Tinh thần xấu của thái độ chủ bại là anh em với cám dỗ muốn tách lúa ra khỏi cỏ dại trước khi đến lúc thích hợp; nó là kết quả của một sự thiếu tin tưởng đầy lo âu và vị kỷ.

86. Tại một số nơi đã xuất hiện rõ một sự “sa mạc hoá” thiêng liêng, kết quả của những cố gắng nơi một số xã hội muốn xây dựng mà không có Thiên Chúa, hay muốn loại trừ mọi gốc rễ Kitô giáo của chúng. Tại những nơi ấy, “thế giới Kitô giáo đang trở nên cằn cỗi và đang tự đánh mất mình giống như một mảnh đất bị khai thác quá mức và biến thành sa mạc”.[66] Tại những nước khác, sự chống đối Kitô giáo buộc các Kitô hữu phải che giấu đức tin của họ trên chính mảnh đất quê hương họ. Đây là một loại sa mạc thương đau. Nhưng gia đình và nơi làm việc cũng có thể là một nơi khô cằn mà dù sao đức tin vẫn phải được bảo tồn và truyền thụ. Tuy nhiên, “xuất phát từ chính kinh nghiệm về sa mạc này, về sự trống rỗng này, chúng ta có thể khám phá lại niềm vui đức tin, tầm quan trọng sinh tử của đức tin đối với chúng ta, nam cũng như nữ. Trong sa mạc, chúng ta khám phá lại giá trị của những gì thiết yếu cho cuộc sống; chẳng hạn, trong thế giới hôm nay, có vô số những dấu chỉ, thường được biểu lộ một cách mặc nhiên hay âm thầm, về sự khao khát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc đời. Và trong sa mạc, những người có đức tin là những người cần thiết để, bằng chính gương sáng đời sống của họ, họ chỉ cho thấy con đường dẫn tới Đất Hứa và giữ vững niềm hi vọng”.[67] Trong những hoàn cảnh này, chúng ta được kêu gọi làm những mạch nước sự sống cho người khác có thể đến uống. Lắm khi nhiệm vụ này là một cây thập giá nặng nề, nhưng chính từ thập giá, từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, Đức Giêsu đã hiến mình cho chúng ta như một nguồn nước sự sống. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hi vọng!

Nói có với các mối tương quan mới do Đức Kitô đem đến

87. Ngày nay, khi các mạng và các phương tiện truyền thông đã đạt những bước tiến bộ chưa từng có, chúng ta cảm nhận một thách thức phải tìm ra và chia sẻ một ‘khoa thần bí’ của việc sống chung với nhau, hoà mình và gặp gỡ, đón nhận và nâng đỡ lẫn nhau, lao mình vào dòng thác này, dòng thác hỗn mang nhưng có thể trở thành một trải nghiệm đích thực về tình huynh đệ, một dòng người thể hiện tình liên đới, một cuộc hành hương thánh. Như thế những khả thể của truyền thông càng lớn thì càng trở thành những khả thể lớn cho sự gặp gỡ và tình liên đới với mọi người. Ra khỏi mình để hoà vào với người khác là điều tốt cho chúng ta. Tự đóng kín mình là nếm cảm vị đắng độc hại của tính tự tại, và loài người sẽ trở nên tồi tệ hơn vì mỗi một chọn lựa ích kỷ của chúng ta.

88. Lý tưởng Kitô giáo sẽ luôn luôn là một lời kêu gọi khắc phục tính hoài nghi, thói quen nghi kỵ lẫn nhau, sợ mất cái riêng tư của mình, tất cả những thái độ tự vệ mà thế giới hôm nay áp đặt trên chúng ta. Nhiều người tìm cách trốn tránh người khác và tìm ẩn náu nơi cái tiện nghi tư riêng của mình hay nơi một nhóm thân hữu ít ỏi, từ chối quan điểm hiện thực về khía cạnh xã hội của Tin Mừng. Bởi vì giống như một số người muốn có một Đức Kitô thuần tuý thiêng liêng, không xác thể và không thập giá, họ cũng muốn các mối tương quan nhân vị của họ được cung cấp bởi những thiết bị tinh vi, những màn hình và những hệ thống mà họ có thể bật và tắt bằng lệnh. Trong khi đó, Tin Mừng không ngừng dạy chúng ta mạo hiểm vào những cuộc gặp gỡ trực diện với người khác, với sự hiện diện thể chất của họ vốn thách thức chúng ta, với nỗi đau và các lời kêu xin của họ, với niềm vui của họ lan toả sáng chúng ta trong mối tương tác gần gũi và liên tục. Lòng tin đích thực vào Con Thiên Chúa nhập thể thì không thể tách rời khỏi sự tự hiến, tư cách thành viên của cộng đoàn, sự phục vụ, sự hoà giải với người khác. Bằng việc nhập thể, Con Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tới cuộc cách mạng của sự dịu dàng.

Bài này đã được xem 1073 lần!

Pages ( 6 of 20 ): <1 ... 45 6 78 ... 20>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]