193. Thiếu kí ức lịch sử là một khiếm khuyết nghiêm trọng của xã hội chúng ta. Nghĩ rằng “mọi sự đã qua rồi” là một tâm thức thiếu trưởng thành. Biết và có thể nhận định trước những biến cố đã qua là khả năng duy nhất để xây dựng một tương lai có ý nghĩa. Không thể giáo dục mà không có kí ức: “Xin anh em nhớ lại những ngày đầu” (Dt 10,32). Những câu chuyện của các cụ rất tốt cho trẻ em và người trẻ, vì họ đặt chúng trong mối liên hệ với lịch sử đã sống của gia đình hay của thôn làng và đất nước. Một gia đình mà thiếu kính trọng và chăm sóc ông bà, vốn là kí ức sống động của mình, sẽ là một gia đình rời rã; ngược lại, một gia đình mà còn nhắc nhớ (đến quá khứ) là gia đình có tương lai. Bởi thế, “trong một nền văn minh mà không có chỗ cho người cao niên hoặc người cao niên bị loại bỏ vì tạo ra vấn đề, thì xã hội đó đã nhiễm vi khuẩn sự chết”,[218] ngay từ lúc “bị nhổ khỏi cội rễ của mình”.[219] Hiện tượng của ngày nay, đó là, người ta cảm thấy mồ côi vì không còn sự kế tục giữa các thế hệ, bị mất gốc và thiếu niềm tin vốn cho ta sức sống, thách thức chúng ta phải làm cho gia đình mình trở thành một nơi, trong đó trẻ con có thể bén rễ sâu vào thửa đất của lịch sử cộng thể.
Anh chị em
194. Theo dòng thời gian, tương quan giữa anh chị em sẽ ngày càng sâu đậm hơn, và “mối liên kết huynh đệ hình thành giữa con cái trong gia đình, nếu được triển nở trong một bầu khí giáo dục mở ra với những người khác, sẽ là trường học lớn dạy sống tự do và hòa bình. Trong gia đình, anh chị em học sống chung với nhau cuộc sống làm người […]. Có lẽ chúng ta không luôn ý thức, nhưng chính gia đình là nơi dẫn dắt tình huynh đệ vào trong thế giới! Từ kinh nghiệm đầu tiên này về tình huynh đệ, được nuôi dưỡng bởi tình thương và giáo dục gia đình, lối sống nghĩa huynh đệ chiếu tỏa như một lời hứa hẹn trên toàn xã hội”.[220]
195. Quãng đời lớn lên giữa anh chị em cho ta một kinh nghiệm tuyệt vời về việc chăm sóc lẫn nhau, qua sự giúp đỡ và được giúp đỡ. Bởi thế, “tình huynh đệ trong gia đình tỏa sáng cách đặc biệt khi chúng ta thấy những sự quan tâm, những ứng xử kiên nhẫn, những tình cảm thương yêu của anh chị vây bọc các em nhỏ yếu đuối nhất, lúc ốm đau hoặc mang khuyết tật”.[221] Phải nhìn nhận rằng “có một anh em trai, một chị em gái thương yêu mình, là một kinh nghiệm mạnh mẽ, vô giá, không gì thay thế được”,[222] tuy nhiên, cần phải kiên nhẫn dạy cho con cái đối xử với nhau như anh chị em. Công cuộc đào tạo thực hành như vậy, đôi khi mệt nhọc đấy nhưng thực sự là một trường dạy về tính xã hội. Tại một số nước tồn tại một xu hướng mạnh mẽ đó là mỗi gia đình chỉ có một con, thì kinh nghiệm tình anh em một nhà bắt đầu ít phổ biến. Trong trường hợp không thể có nhiều hơn một đứa con, ta sẽ phải tìm cách bảo đảm đứa trẻ không lớn lên đơn độc hoặc bị cô lập.
Một trái tim lớn
196. Ngoài tổ ấm nhỏ của đôi vợ chồng và con cái, còn có gia đình mở rộng mà ta không thể bỏ qua. Thật vậy, “tình yêu giữa người nam và người nữ trong hôn nhân, từ đó mở rộng ra hơn, tình yêu thương giữa các thành viên trong cùng một gia đình – giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em, giữa bà con họ hàng thân thuộc – nhận được hồn sống và sự nâng đỡ bởi một sức năng động nội tại đưa dẫn gia đình đến một tình hiệp thông mỗi lúc một sâu xa và đậm đà hơn, làm nền tảng và nguyên lí cho cộng đoàn hôn nhân và gia đình”.[223] Trong khung cảnh ấy còn có các bạn hữu và các gia đình thân hữu, và cả những cộng đoàn gia đình hỗ trợ lẫn nhau trong những lúc khó khăn, trong những dấn thân xã hội và trong đức tin.
197. Gia đình lớn này nên tiếp đón các thiếu nữ lầm lỡ, các trẻ không cha không mẹ, những bà mẹ đơn thân một mình nuôi dạy con cái, những người khuyết tật thiếu thốn tình thương và sự gần gũi đặc biệt, những người trẻ đang chiến đấu để thoát khỏi nghiện ngập, những người độc thân, li dị hoặc góa bụa đang chịu cảnh sống cô độc, những người già yếu và bệnh tật không con cái đỡ nâng, và cũng đón tiếp “thậm chí cả những người bất hạnh nhất bởi lối sống thiếu đạo đức của họ”.[224] Gia đình lớn cũng có thể giúp đỡ bù đắp cho sự yếu kém của các cha mẹ, hoặc khám phá và tố cáo kịp thời những hoàn cảnh khả dĩ xảy ra bạo lực hoặc việc trẻ em bị lạm dụng, qua sự tỏ bày một tình thương lành mạnh và đỡ đần thân ái khi cha mẹ chúng không thể bảo đảm điều đó.
198. Sau hết, chúng ta không thể quên rằng trong gia đình lớn này còn có cả cha mẹ và tất cả bà con họ hàng của người bạn đời. Một sự tế nhị riêng của tình yêu là tránh nhìn họ như những đối thủ cạnh tranh, như những con người nguy hiểm, như những kẻ xâm lấn. Sự hợp nhất vợ chồng đòi phải tôn trọng những phong tục và tập quán của họ, cố tìm hiểu ngôn ngữ của họ, hạn chế những lời chỉ trích, quan tâm đến họ và một cách nào đó mang họ vào trong trái tim của mình, ngay cả khi ta phải giữ gìn sự độc lập chính đáng và sự riêng tư của hai vợ chồng. Những thái độ ấy cũng là cung cách tinh tế ta bày tỏ sự quảng đại dấn thân đầy yêu thương đối với người bạn đời của mình.
CHƯƠNG VI – MỘT SỐ VIỄN ẢNH MỤC VỤ
199. Các cuộc đối thoại trong suốt thời gian Thượng Hội đồng đã khơi lên nhu cầu cần phát triển những đường hướng mục vụ mới, mà giờ đây tôi sẽ cố gắng tóm lược một cách tổng quát. Chính các cộng đoàn khác nhau sẽ phải khai triển những đề nghị thiết thực và hiệu quả hơn, lưu ý đến cả giáo huấn của Hội thánh cũng như các nhu cầu và thách đố tại địa phương. Ở đây tôi không nhằm giới thiệu một mục vụ gia đình, mà chỉ có ý định giới hạn vào việc thâu thập một vài thách đố mục vụ chính yếu.
Loan báo Tin mừng gia đình ngày nay
200. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng các gia đình Kitô hữu, nhờ ân sủng của Bí tích Hôn nhân, là chủ thể chính của mục vụ gia đình, nhất là khi họ cống hiến “chứng tá đầy hoan lạc của đôi vợ chồng và của gia đình, Hội thánh tại gia”.[225] Bởi thế, các ngài nhấn mạnh rằng “điều quan trọng là làm cho người ta cảm nghiệm được Tin mừng gia đình là một niềm vui “đầy ắp tâm hồn và cả cuộc sống của họ”, vì trong Đức Kitô, chúng ta được “giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô độc” (Evangelii Gaudium, 1). Dưới ánh sáng của dụ ngôn người gieo giống (cf. Mt 13,3-9), nhiệm vụ của chúng ta là hợp tác trong việc gieo trồng: phần còn lại là công trình của Thiên Chúa. Chúng ta cũng không được quên việc Hội thánh rao giảng về gia đình là một dấu hiệu cho sự mâu thuẫn”,[226] nhưng các đôi vợ chồng cảm kích các Mục tử vì đã cho họ những lí do để can đảm đặt cược vào một tình yêu mãnh liệt, chắc chắn, vững bền, có khả năng đối phó với tất cả những gì gặp trên đường đời. Hội thánh muốn đến với các gia đình trong sự cảm thông khiêm tốn, và ước muốn của Hội thánh là “đồng hành với mỗi gia đình và mọi gia đình để họ có thể khám phá ra cách tốt nhất để vượt qua những khó khăn mà họ gặp phải trên hành trình của họ”.[227] Không phải chỉ đưa vào các kế hoạch mục vụ lớn lao với mối bận tâm chung chung đối với gia đình là đủ. Để các gia đình có thể mỗi lúc một trở nên là chủ thể tích cực của mục vụ gia đình hơn nữa, đòi hỏi ta phải có “một nỗ lực loan báo Tin mừng và huấn giáo hướng vào trong chính gia đình”,[228] theo định hướng này.
201. “Vì thế, toàn thể Hội thánh cần có một sự hoán cải truyền giáo: không được chỉ dừng lại ở việc loan báo hoàn toàn có tính lí thuyết và xa rời thực tế với những vấn đề của con người”.[229] Mục vụ gia đình “phải làm cho người ta cảm thấy được rằng Tin mừng về gia đình đáp ứng những mong đợi sâu xa nhất của con người: phẩm giá của con người và sự thực hiện viên mãn trong tinh thần tương trợ, hiệp thông và phong nhiêu. Vấn đề không chỉ là giới thiệu các luật lệ, nhưng là đề xuất các giá trị đáp ứng nhu cầu thiết thực của con người ngày nay, ngay cả trong các nước bị tục hóa nhiều nhất.[230] Ngoài ra, các Nghị phụ “cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc loan báo Tin mừng thẳng thắn vạch trần những nhân tố văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế nào (chẳng hạn như vai trò quá lớn người ta gán cho logic thị trường, chẳng hạn) ngăn cản cuộc sống gia đình thật sự, dẫn đến sự phân biệt đối xử, nghèo đói, loại trừ và bạo lực. Vì thế, cần phát triển đối thoại và hợp tác với các tổ chức xã hội, và khuyến khích và hỗ trợ các giáo dân đang nỗ lực dấn thân, với tư cách là Kitô hữu, trong lãnh vực văn hóa và xã hội-chính trị”.[231]
202. “Sự góp phần chính yếu cho mục vụ gia đình là từ nơi giáo xứ, như một gia đình của các gia đình, giáo xứ kết hợp hài hòa các đóng góp của các cộng đoàn nhỏ, các phong trào và các hiệp hội của Hội thánh”.[232] Cùng với một mục vụ chuyên biệt hướng đến các gia đình, chúng ta thấy cũng cần có một “công cuộc đào tạo phù hợp hơn cho các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, các giáo lý viên và các tác viên mục vụ khác”.[233] Các phúc đáp cho việc tham khảo ý kiến được gửi đến toàn thế giới nêu lên nhận định rằng các thừa tác viên có chức thánh thường được đào tạo thiếu phù hợp để đối phó với các vấn đề phức tạp hiện nay của gia đình. Theo hướng đó, kinh nghiệm của truyền thống Đông phương lâu đời về việc linh mục kết hôn cũng có thể hữu ích.
203. Các chủng sinh cần được đào tạo rộng hơn theo liên ngành về mục vụ chuẩn bị hôn nhân và hôn nhân, chứ không chỉ đơn thuần về lí thuyết. Hơn nữa, việc đào tạo không luôn cho phép họ bày tỏ thế giới tâm lí tình cảm của họ. Một số chủng sinh mang trong mình kinh nghiệm của một gia đình bị thương tích, không có cha hoặc mẹ, với tình trạng cảm xúc thiếu ổn định. Cần bảo đảm một chương trình đào tạo giúp các thừa tác viên tương lai trưởng thành có được sự quân bình tâm lí do nhiệm vụ đòi hỏi. Các mối liên hệ trong gia đình là nền tảng để củng cố lòng tự trọng lành mạnh của các chủng sinh. Bởi thế, để giúp họ kiên vững trong thực tế thì việc đồng hành của các gia đình trong suốt quá trình chủng viện và đời linh mục là rất quan trọng. Theo nghĩa đó, nên có sự kết hợp giữa thời gian trong chủng viện với những thời gian khác trong giáo xứ, điều đó giúp họ tiếp xúc nhiều hơn với thực tế cụ thể của các gia đình. Quả thật, suốt cuộc đời mục vụ linh mục gặp gỡ các gia đình nhiều nhất. “Sự hiện diện của giáo dân và gia đình, đặc biệt là sự hiện diện của người nữ trong việc đào tạo linh mục, giúp họ biết quý trọng sự đa dạng và bổ túc của nhiều ơn gọi khác nhau trong Hội thánh”.[234]
204. Các phúc đáp cho việc tham khảo ý kiến cũng bày tỏ cách tha thiết về sự cần thiết phải đào tạo tác viên giáo dân của mục vụ gia đình với sự giúp đỡ của các nhà tâm lí giáo dục, bác sĩ gia đình, bác sĩ cộng đồng, nhân viên xã hội, luật sư cho trẻ em và gia đình, với tinh thần cởi mở đón nhận sự đóng góp của các khoa tâm lí học, xã hội học, tính dục học và cả khoa tham vấn (counseling). Các nhà chuyên môn, đặc biệt là những người có kinh nghiệm đồng hành, giúp thể hiện các hướng dẫn mục vụ trong những hoàn cảnh thực tế và những bận tâm cụ thể của gia đình. “Các chương trình và các khóa đào tạo dành riêng cho các tác viên mục vụ có thể đào tạo cho họ có khả năng đưa chương trình chuẩn bị hôn nhân hòa nhập vào đời sống năng động rộng lớn hơn của Hội thánh”.[235] Một sự chuẩn bị mục vụ tốt là điều rất quan trọng “ngay cả đối với các tình huống khẩn cấp đặc biệt do bạo hành trong gia đình và lạm dụng tình dục”.[236] Tất cả những điều đó không hề làm suy giảm, mà còn bổ túc thêm giá trị nền tảng của việc linh hướng, của các nguồn mạch thiêng liêng vô giá của Hội thánh và của bí tích Hòa Giải.
Hướng dẫn những người đính hôn trong hành trình chuẩn bị hôn nhân
205. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định bằng nhiều cách khác nhau rằng cần giúp các bạn trẻ khám phá giá trị và sự phong phú của hôn nhân.[237] Họ phải nhận ra được sự hấp dẫn của một kết hợp trọn vẹn, một kết hợp nâng cao và kiện toàn chiều kích xã hội của cuộc sống, mang lại cho tính dục ý nghĩa cao trọng nhất của nó, và đồng thời cổ võ thiện ích của con cái và tạo cho chúng hoàn cảnh tốt nhất để được trưởng thành và giáo dục.
206. “Thực tại xã hội phức tạp và những thách đố mà ngày nay các gia đình đang phải đối diện đòi hỏi toàn thể cộng đoàn Kitô hữu dấn thân hơn nữa trong việc chuẩn bị cho các đôi bạn sắp kết hôn. Cần nhớ tầm quan trọng của các nhân đức. Trong số đó đức khiết tịnh là điều kiện quý báu cho sự tăng trưởng đích thật của tình yêu liên vị. Về sự cần thiết này, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã đồng ý nhấn mạnh đến đòi hỏi phải có sự tham gia nhiều hơn của cả cộng đoàn, đặc biệt là đời sống chứng tá của chính các gia đình, cũng như có một nền tảng chuẩn bị hôn nhân trong hành trình khai tâm Kitô giáo, bằng việc nhấn mạnh đến mối quan hệ hôn nhân với Bí tích Rửa tội và các bí tích khác. Đồng thời cũng rõ ràng là cần phải có các chương trình đặc biệt để chuẩn bị gần cho việc kết hôn, đây thật là một kinh nghiệm thật sự tham dự vào đời sống của Hội thánh và để đôi bạn có cơ hội đào sâu hơn những khía cạnh khác nhau của đời sống gia đình”.[238]
207. Tôi mời gọi các cộng đoàn Kitô hữu hãy nhận biết rằng việc đồng hành với những người đính hôn trong hành trình tình yêu của họ là một việc thiện ích cho chính họ. Như các Giám mục Ý đã nói rất đúng rằng những người kết hôn, đối với cộng đoàn Kitô hữu, là “một nguồn tài nguyên quý giá vì, trong khi chân thành dấn thân lớn lên trong tình yêu và tự hiến cho nhau, họ có thể góp phần đổi mới chính tấm áo dệt nên toàn bộ thân thể Hội thánh: một hình thức đặc biệt của tình bạn mà họ đang sống có thể trở thành mẫu dễ làm lan tỏa, và làm tăng trưởng tình thân hữu và huynh đệ trong cộng đoàn Kitô hữu mà họ thuộc về”.[239] Có nhiều cách thức hợp pháp để tổ chức việc chuẩn bị gần cho hôn nhân, và mỗi Hội thánh địa phương sẽ phân định thế nào là cách tốt nhất, nhờ bảo đảm một sự huấn luyện phù hợp đồng thời không làm cho các bạn trẻ xa rời bí tích. Không cần phải truyền đạt cho họ toàn bộ Giáo lý, cũng không đưa ra cho họ quá nhiều chủ đề. Thật vậy, cả trong trường hợp này, quả đúng là “không phải biết nhiều mà làm no thỏa linh hồn, nhưng là cảm và nếm thực tại trong tâm hồn”.[240] Cần quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng, và phải dành ưu tiên – cùng với việc loan báo Tin mừng kerygma cách mới mẻ – cho nội dung, nếu được truyền đạt cách hấp dẫn và sâu sắc, sẽ giúp họ dấn thân vào hành trình trọn cuộc đời “với cả trái tim và lòng quảng đại”.[241] Điều quan trọng là “con đường khai tâm” vào Bí tích Hôn nhân khả dĩ cung cấp cho họ những yếu tố cần thiết để có thể lãnh nhận bí tích ấy với những điều kiện tốt nhất và khởi đầu cuộc sống gia đình một cách vững chắc.
208. Hơn nữa, cũng nên tìm ra những phương thế, thông qua các gia đình truyền giáo, các gia đình của chính những người đính hôn và các nguồn lực mục vụ khác, để thực hiện một sự chuẩn bị từ xa, khả dĩ giúp cho tình yêu của họ trưởng thành bằng một sự đồng hành gần gũi và chứng từ phong phú. Thường thì rất hữu ích nếu quy tụ được các nhóm bạn đang thời kì đính hôn và đề nghị các buổi nói chuyện chuyên đề dựa trên một vài chủ đề khác nhau mà người trẻ thực sự quan tâm. Tuy nhiên, không thể thiếu một vài thời điểm riêng tư, với mục đích chính yếu là để giúp mỗi người học cách yêu thương con người cụ thể này, con người mà người đó muốn chia sẻ cả cuộc đời. Học yêu thương một ai đó không phải là một cái gì bất ngờ, cũng không thể là mục tiêu của một khóa học ngắn hạn trước khi cử hành hôn phối. Thực ra, mỗi người đều chuẩn bị cho cuộc hôn nhân ngay từ lúc sinh ra. Tất cả những gì nhận được từ gia đình cho phép người ta học được cái gì đó từ chính lịch sử của mình và làm cho họ có khả năng cam kết trọn vẹn và dứt khoát. Có lẽ những người được chuẩn bị kết hôn tốt nhất là những người đã học được từ chính cha mẹ mình thế nào là một hôn nhân Kitô giáo, trong đó cả hai người chọn nhau vô điều kiện và tiếp tục làm mới lại quyết định đó mỗi ngày. Theo hướng đó, tất cả các hoạt động mục vụ nhằm giúp các đôi vợ chồng lớn lên trong tình yêu thương và sống Tin mừng trong gia đình, đều là sự giúp đỡ vô giá để con cái họ tự chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân tương lai của mình. Cũng đừng quên những đóng góp quý giá của mục vụ đại chúng. Để lấy một ví dụ đơn giản, tôi nhớ đến ngày lễ thánh Valentinô, mà trong một số nước ngày lễ này được giới kinh doanh khai thác tốt hơn là sự sáng tạo của các mục tử.
Bài này đã được xem 1189 lần!