TÔNG HUẤN NIỀM VUI CỦA TÌNH YÊU – AMORIS LAETITIA

248. “Những hôn phối khác đạo là nơi ưu việt cho cuộc đối thoại liên tôn […] có một số khó khăn đặc biệt cả về căn tính Kitô giáo của gia đình, lẫn về việc giáo dục đức tin cho con cái. […] Số các gia đình mà đôi vợ chồng kết hợp theo hôn phối khác đạo ngày càng tăng trong các vùng truyền giáo và ngay cả tại các nước có truyền thống Kitô giáo lâu đời, đòi hỏi khẩn thiết phải có chương trình chăm sóc mục vụ đặc biệt tùy theo bối cảnh xã hội và văn hóa khác nhau. Tại một số quốc gia, không có tự do tôn giáo, người phối ngẫu Kitô giáo bị buộc phải cải đạo khác mới có thể kết hôn, và không thể cử hành hôn phối khác đạo theo giáo luật, cũng không thể rửa tội cho con cái. Bởi thế, chúng tôi tái khẳng định sự tự do tôn giáo thiết yếu phải được tôn trọng đối với tất cả mọi người”.[272] Cần đặc biệt chú ý đến những người kết hợp trong các cuộc hôn nhân như vậy, không những chỉ trong thời kì trước lễ cưới. Các đôi vợ chồng và gia đình trong đó một người là Công giáo và người kia là không phải là tín hữu gặp phải những thách đố rất đặc biệt. Trong những trường hợp như thế, cần phải chứng tỏ khả năng đem Tin mừng cắm sâu vào những hoàn cảnh như thế mới mong có thể giáo dục con cái của họ theo đức tin Kitô giáo”.[273]

249. “Khó khăn đặc biệt xuất hiện trong hoàn cảnh liên quan đến việc rửa tội cho những người đang ở trong một điều kiện hôn nhân phức tạp. Đó là trường hợp những người đã kết ước một hôn phối bền vững trong thời gian ít nhất một trong hai người chưa biết đức tin Kitô giáo. Trong những trường hợp này, các Giám mục được mời gọi thực hiện việc phân định mục vụ thích đáng với lợi ích thiêng liêng của họ”.[274]

250. Hội thánh chọn thái độ sống phù hợp với Chúa Giêsu, bằng một tình yêu không biên giới mà Người đã tự hiến cho mọi người không trừ một ai.[275] Cùng với các Nghị phụ Thượng Hội đồng, tôi đã xem xét hoàn cảnh của các gia đình sống kinh nghiệm trong nhà mình có người mang xu hướng đồng tính, một kinh nghiệm không dễ dàng đối với cha mẹ cũng như con cái. Vì vậy, trước hết chúng tôi muốn khẳng định lại rằng mọi người, không phân biệt khuynh hướng tính dục, phải được tôn trọng theo phẩm giá của họ và phải được đón nhận với lòng kính trọng, hết sức tránh “mọi dấu hiệu kì thị bất công”[276] và nhất là mọi hình thức gây hấn và bạo lực. Còn đối với gia đình thì cần bảo đảm một sự đồng hành trân trọng, để người có xu hướng đồng tính có thể nhận được sự trợ giúp cần thiết, để họ hiểu và thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trên cuộc đời của mình.[277]

251. Trong khi thảo luận về phẩm giá và sứ mạng của gia đình, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã nhận định rằng “về các dự tính xem những kết hợp giữa những người đồng tính đồng nhất với hôn nhân, thì không có một nền tảng nào để đồng hóa những kết hợp đồng tính và kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình hoặc xem là tương tự, hoặc thậm chí giống xa xa”; và không thể chấp nhận “rằng các Giáo hội địa phương phải chịu sức ép về vấn đề này và các cơ quan quốc tế đặt điều kiện cho những viện trợ tài chính cho các nước nghèo để đưa vào các đạo luật cho phép lập “hôn nhân” giữa những người cùng giới.[278]

252. Những gia đình chỉ có cha hoặc mẹ đơn thân thường xuất phát từ trường hợp “những người mẹ hoặc người cha ruột, chưa hề bao giờ muốn hội nhập vào cuộc sống gia đình, những hoàn cảnh bạo hành trong đó một người đã buộc phải bỏ trốn cùng con cái, cái chết của một trong hai người cha hoặc mẹ, một trong hai người từ bỏ gia đình, và nhiều hoàn cảnh khác nữa. Dù nguyên nhân nào đi nữa, người cha hoặc người mẹ đơn thân đang sống với con nhỏ phải được nâng đỡ và an ủi từ những gia đình khác trong cộng đoàn Kitô hữu, cũng như từ các tổ chức mục vụ giáo xứ. Những gia đình này thường chịu ảnh hưởng bởi sức nặng của các vấn đề kinh tế, sự bấp bênh của công ăn việc làm, khó khăn trong việc nuôi dưỡng con cái, thiếu nhà ở”.[279]

Khi cái chết gây đau thương

253. Có những lúc cuộc sống gia đình bị thách thức do cái chết của một người thân yêu. Chúng ta không nên bỏ lỡ dịp mang ánh sáng đức tin đến để đồng hành với gia đình đang đau khổ trong những lúc này.[280] Bỏ quên một gia đình đang đau đớn vì có người thân qua đời là một sự thiếu sót lòng thương xót, là đã bỏ mất cơ hội cho mục vụ, và với thái độ này các cánh cửa có thể sẽ khép lại với chúng ta khiến cho không thể làm bất cứ điều gì khác để loan báo Tin mừng.

254. Tôi hiểu nỗi thống khổ của người đã mất đi một người rất thân yêu, một người phối ngẫu đã từng chia sẻ với mình biết bao nhiêu điều. Chính Chúa Giêsu đã xúc động và đã khóc tại đám tang của một người bạn (cf. Ga 11,33.35). Và làm sao chúng ta lại không hiểu được tiếng khóc than của người đã mất một đứa con? Quả thật, “khi ấy thời gian như ngừng lại: vực thẳm như mở ra nuốt lấy cả quá khứ và tương lai. […] Và có khi đau đớn đến nỗi ta còn lên án Thiên Chúa. Biết bao người – tôi hiểu họ – nổi giận với Thiên Chúa”.[281]  “Góa bụa là một kinh nghiệm đặc biệt khó khăn […] một số người cho thấy họ biết dồn sức lực của mình nhiều hơn cho con cho cháu, nhờ đó tìm ra được một sứ mạng giáo dục mới qua lối biểu lộ tình yêu này. […] Những người không có người thân để có thể cậy dựa và để nhận được tình cảm an ủi, họ cần được cộng đoàn Kitô hữu hỗ trợ với sự quan tâm đặc biệt và sẵn sàng giúp đỡ, nhất là khi họ lâm vào hoàn cảnh cùng cực”.[282]

255. Thông thường sự thương tiếc người thân qua đời có thể kéo dài một thời gian, và khi một mục tử muốn đồng hành với gia đình theo lộ trình này, cần thích ứng với nhu cầu của từng giai đoạn. Toàn bộ lộ trình này được khơi gợi  qua các vấn đề sau: về nguyên nhân của cái chết, về những gì lẽ ra đã có thể làm được, về việc người ấy đã sống như thế nào trước khi chết … Qua một hành trình chân thành và kiên nhẫn của cầu nguyện và của giải thoát nội tâm, bình an sẽ trở lại. Đến một lúc nào đó trong quãng thời gian tang tóc, ta cũng cần giúp họ khám phá ra rằng có bao nhiêu người giữa chúng ta cũng đã mất một người thân yêu, nhưng chúng ta vẫn còn có một sứ mạng để hoàn thành, và rằng không ích gì  việc kéo dài nỗi đau khổ như thể muốn tỏ lòng tôn kính người quá cố. Người thân yêu đã qua đời không cần chúng ta phải đau khổ, họ cũng không vui gì khi chúng ta tàn phá cuộc đời mình. Cũng không phải là biểu hiện tốt nhất của tình yêu khi gợi nhớ và gọi tên người ấy liên tục, bởi vì làm như thế có nghĩa là bám víu vào một quá khứ không còn nữa, thay vì yêu thương một người thực sự hiện đang ở bên kia thế giới. Sự hiện diện thể lí của họ không còn nữa, nhưng, nếu sự chết là một cái gì đó mạnh mẽ, thì “tình yêu cũng mạnh như sự chết” (Dc 8,6). Tình yêu có một trực giác, giúp ta nghe được cái vô thanh và nhìn thấy được cái vô hình. Điều này không phải là một việc tưởng tượng người thân yêu đó như họ vốn là, nhưng là khả năng có thể chấp nhận họ đã được biến đổi như họ hiện giờ. Đức Giêsu Phục sinh, khi Maria bạn Người muốn ôm chặt lấy Người, Người đã bảo chị ấy đừng cầm giữ Người lại (cf. Ga 20,17), để mở ra cho chị một cuộc gặp gỡ khác.

256. Biết rằng người chết không bị hủy diệt hoàn toàn là một điều an ủi cho chúng ta, và đức tin bảo đảm cho chúng ta rằng Chúa Phục Sinh sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể ngăn cái chết không cho nó “làm nhiễm độc cuộc sống, làm tình cảm của ta thành trống rỗng, xô ta rơi vào khoảng không tăm tối nhất”.[283] Thánh Kinh nói về một Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta vì tình yêu, và đã tạo nên chúng ta cách nào đó để cuộc sống của chúng ta không kết thúc bằng cái chết (cf. Kn 3,2-3). Thánh Phaolô nói với chúng ta về một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô ngay sau cái chết: “Mong ước của tôi là được ra đi để ở với Ðức Kitô” (Pl 1,23). Với Người, sau cái chết, điều đang chờ đợi chúng ta là những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài (1 Cr 2,9). Kinh Tiền Tụng của Phụng Vụ lễ cầu hồn diễn tả điều đó cách tuyệt vời: “Để những ai buồn sầu vì số phận chắc chắn phải chết cũng được an ủi vì Chúa đã hứa ban phúc trường sinh bất diệt sau này. Vì, lạy Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi”. Thật vậy, “những người thân yêu của chúng ta không biến mất trong bóng tối hư không: niềm hi vọng bảo đảm với chúng ta rằng họ đang ở trong vòng tay tốt lành và mạnh mẽ của Thiên Chúa”.[284]

257. Một cách để thông giao với những người thân yêu của chúng ta đã qua đời là cầu nguyện cho họ.[285] Thánh Kinh nói “cầu nguyện cho người chết” là một việc “thánh thiện và đạo đức” (2 Mcb 12,44-45). Lời cầu nguyện cho họ “không những có thể giúp họ, mà còn làm cho lời chuyển cầu của họ cho chúng ta mang lại hiệu quả”.[286] Sách Khải Huyền trình bày các vị tử đạo, trong khi khẩn cầu cho những người đau khổ vì bất công trên thế gian (cf. 6,9-11), liên kết vững vàng với thế giới này trên hành trình đi về. Một số vị thánh, trước khi chết, an ủi những người thân yêu hứa rằng các ngài sẽ ở gần họ để giúp họ. Thánh Têrêsa thành Lisieux cảm thấy mình muốn tiếp tục làm việc lành từ trên Trời.[287] Thánh Đa minh quả quyết rằng “ngài sẽ giúp ích nhiều hơn sau khi qua đời […] mạnh mẽ hơn trong việc đoạt lấy ân sủng”.[288] Đó là những mối dây liên kết yêu thương, vì “sự kết hợp giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã yên nghỉ trong bình an của Chúa Kitô không hề bị gián đoạn […], nhưng được củng cố nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng”.[290]

258. Nếu chúng ta chấp nhận cái chết, chúng ta có thể chuẩn bị cho nó. Cách chuẩn bị là chúng ta lớn lên trong tình yêu hướng đến những người đang bước đi cùng với mình, cho đến ngày “sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,4). Bằng cách đó, chúng ta cũng chuẩn bị gặp lại những người thân yêu của ta đã qua đời. Như Đức Giêsu trao đứa con đã chết được hồi sinh lại cho người mẹ (cf. Lc 7,15), đối với chúng ta Người cũng sẽ làm như thế. Chúng ta đừng phí sức bám níu năm này qua năm khác những gì thuộc quá khứ. Chúng ta càng sống tốt trên trái đất này bao nhiêu, thì chúng ta càng có thể chia sẻ hạnh phúc lớn lao hơn với những người thân yêu của chúng ta trên trời bấy nhiêu. Chúng ta càng trưởng thành và triển nở bao nhiêu, thì chúng ta càng có thể mang được nhiều điều tốt đẹp hơn vào bàn tiệc thiên quốc bấy nhiêu.

CHƯƠNG VIICỦNG CỐ VIỆC GIÁO DỤC CON CÁI

259. Cha mẹ luôn có ảnh hưởng trên sự phát triển về mặt tinh thần của con cái, về điều tốt cũng như điều xấu. Vì thế, việc tốt nhất là họ hãy đảm nhận trách nhiệm không thể né tránh này và thực hiện việc giáo dục cách ý thức, nhiệt thành, hữu lí và phù hợp. Vì chức trách giáo dục này của gia đình là rất quan trọng và trở nên rất phức tạp, nên tôi muốn dừng lại ở điểm này để xem xét cách đặc biệt.

Con cái của chúng ta đang ở đâu?

260. Gia đình không thể khước từ mình chính là nơi nâng đỡ, đồng hành, hướng dẫn con cái, cho dù cần phải tái tạo lại các phương pháp và tìm cho ra các nguồn lực mới. Cha mẹ cần phải dự tính xem mình muốn trao cho con cái những gì. Bởi thế cha mẹ không được tránh né tự hỏi xem ai là người đang quan tâm cung ứng cho chúng những trò giải trí và niềm vui, ai là kẻ đi vào phòng của bọn trẻ qua các màn hình TV hay máy điện tử, ai là người mà mình trao phó con cái để họ hướng dẫn chúng trong những thời gian rảnh rỗi. Chỉ cần chúng ta dành thời gian cho con cái, nói với chúng về những chuyện quan trọng một cách đơn giản với tâm tình trìu mến, và tạo ra những cơ hội lành mạnh để chiếm hết thời gian của chúng, như vậy sẽ giúp chúng tránh được khỏi bị xâm hại. Cảnh giác thì luôn luôn cần thiết. Bỏ bê con cái không bao giờ là điều hay. Cha mẹ phải hướng dẫn và chuẩn bị cho con cái, trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, để chúng biết đối phó với những hoàn cảnh mà chúng có thể gặp phải, chẳng hạn như các nguy cơ bị tấn công, lạm dụng hoặc nghiện ngập.

261. Tuy nhiên, lo lắng quá đến mức bị ám ảnh thì không phải là giáo dục, và chúng ta không thể kiểm soát hết mọi tình huống mà con mình có thể trải qua. Ở đây có thể ứng dụng nguyên tắc “thời gian thì quan trọng hơn không gian”.[291] Nói cách khác, điều quan trọng là tạo ra các quy trình hơn là kiểm soát các nơi chốn. Nếu một phụ huynh bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và kiểm soát mọi việc làm của nó, thì đó chỉ là tìm cách kiểm soát về nơi chốn. Đó không phải là giáo dục con, không giúp con tăng trưởng, không chuẩn bị cho con đối đầu với những thách đố. Điều đáng quan tâm chủ yếu là tạo ra nơi con cái, với cả tình thương yêu, những tiến trình giúp trưởng thành sự tự do của con, chuẩn bị, triển nở toàn diện, vun trồng sự tự lập đích thật. Chỉ như thế đứa con mới có được những yếu tố cần thiết để biết tự bảo vệ và hành động cách thông minh và khôn ngoan trong các hoàn cảnh khó khăn. Bởi vậy, câu hỏi quan trọng đặt ra không phải là biết con mình hiện đang ở đâu, lúc này nó đang ở với ai, theo nghĩa thể lí, nhưng là hiện giờ nó đang ở đâu theo nghĩa hiện sinh, nghĩa là nó đang đặt những xác tín, mục tiêu, ước muốn, dự tính cuộc đời mình ở đâu. Thế nên, những câu hỏi mà tôi muốn đặt ra với các bậc cha mẹ là: “Chúng ta có tìm hiểu con mình đang thực sự “ở đâu” trong hành trình đời sống của chúng không? Tâm hồn của chúng đang thực sự ở đâu, chúng ta có biết không? Và nhất là, chúng ta có muốn biết điều đó không?”.[292]

262. Nếu trưởng thành chỉ là sự phát triển một cái gì đó vốn đã có sẵn trong mã di truyền, thì sẽ không có gì để làm. Sự khôn ngoan, khả năng phán đoán và lương tri không  phụ thuộc vào các yếu tố tăng trưởng thuần túy về lượng, nhưng phụ thuộc cả một chuỗi các yếu tố tổng hợp trong thâm sâu tâm hồn con người; chính xác hơn, nằm ngay trong trung tâm của tự do con người. Hẳn nhiên, mỗi đứa con sẽ làm ta ngạc nhiên với các dự tính của chúng xuất phát từ tự do ấy, chúng phá vỡ cả những khuôn suy nghĩ của cha mẹ, và nếu điều đó có xảy đến thì cũng tốt. Giáo dục gồm cả nhiệm vụ giúp phát triển sự tự do có trách nhiệm, để tại các giao điểm của cuộc đời chúng biết lựa chọn với ý ngay lành và thông minh; đào tạo những người hiểu rõ rằng cuộc sống của mình và của cộng đoàn mình là do mình định đoạt và sự tự do này là một quà tặng lớn lao.

Huấn luyện đạo đức cho con cái

263. Dẫu cha mẹ cần đến trường học để bảo đảm cho con cái mình có được một nền giáo dục cơ bản, nhưng họ không bao giờ có thể khoán trắng việc huấn luyện đạo đức cho con cái nơi một ai khác. Sự phát triển tình cảm và đạo đức của một con người đòi hỏi một kinh nghiệm cơ bản: tin rằng cha mẹ của mình là đáng tin cậy. Đó là một trách nhiệm trong giáo dục: với tình thương và gương sáng cha mẹ tạo sự tin tưởng nơi con cái, truyền cho chúng một lòng kính trọng trong yêu thương. Khi một đứa con nào đó không còn cảm thấy mình được quý yêu trước mặt cha mẹ, dù đó là do khuyết điểm của mình, hoặc nó không nhận thấy cha mẹ đang quan tâm thật sự đến nó, điều đó gây tổn thương sâu sắc và tạo nhiều nhiều khó khăn trên bước đường trưởng thành của nó. Sự vắng mặt này, tức là sự bỏ rơi do thiếu tình thương, sẽ gây ra một nỗi đau sâu sắc hơn là một sự sửa dạy nào đó có thể có do trẻ làm một hành động sai trái.

264. Nhiệm vụ của cha mẹ bao gồm cả việc giáo dục ý chí và phát triển những thói quen cũng như khuynh hướng tình cảm hướng thiện cho con cái. Điều đó hàm ý nói đến những cách cư xử tốt đẹp đáng để học tập và những khuynh hướng cần phát triển dẫn đến sự trưởng thành. Nhưng người ta luôn bàn đến một tiến trình khởi đi từ sự bất toàn đến sự viên mãn hơn. Ước muốn thích nghi với xã hội, hoặc thói quen từ bỏ được thỏa mãn ngay lập tức để thích ứng với một luật lệ và bảo đảm cho mình một cuộc chung sống tốt đẹp, tự nó đã là một giá trị khởi đầu cho tâm hồn hướng đến những giá trị cao hơn. Việc giáo dục đạo đức phải luôn được thực hiện bằng những phương pháp tích cực và đối thoại giáo dục liên quan đến sự nhạy cảm và ngôn ngữ riêng của con cái. Ngoài ra, việc giáo dục này phải được thực hiện theo cách quy nạp, sao cho đứa trẻ có thể tự mình khám phá được tầm quan trọng của các giá trị nhất định, các nguyên tắc và luật lệ, thay vì áp đặt cho nó những điều được xem như là những chân lí dứt khoát.

Bài này đã được xem 1149 lần!

Pages ( 18 of 24 ): <1 ... 1617 18 1920 ... 24>

BÌNH LUẬN

Mục lục

Trang

[custom_pagination]

Nhập từ khoá cần tìm và bấm Enter

[display_search_form]