Cần có giáo dục giới tính
280. Công Đồng Vatican II đề cập đến sự cần thiết phải có về “một nền giáo dục giới tính tích cực và khôn ngoan”, dành cho trẻ em và thanh thiếu niên “dần theo năm tháng khi chúng lớn lên” và “phải lưu tâm đến những tiến bộ của tâm lí học, sư phạm và giáo dục”. [301] Chúng ta nên tự hỏi liệu các tổ chức giáo dục của chúng ta đã đảm nhận thách đố này chưa. Thật khó để nghĩ về vấn đề giáo dục giới tính trong một thời đại khi người ta có xu hướng tầm thường hóa và làm nghèo nàn tính dục. Người ta chỉ có thể hiểu được nó trong cái nhìn toàn cảnh của một nền giáo dục về tình yêu, sống dâng hiến cho nhau. Bằng cách đó, ngôn ngữ của tính dục sẽ không bị làm nghèo nàn đi một cách đáng buồn, nhưng được khai sáng. Xung năng tính dục có thể được vun trồng trong một tiến trình nhận biết chính mình và trong sự phát triển năng lực tự chủ, có thể giúp khơi lên khả năng quý giá của niềm vui và sự gặp gỡ thân tình.
281. Giáo dục giới tính cung cấp thông tin, nhưng không được quên rằng trẻ em và thanh thiếu niên chưa đạt tới sự trưởng thành đầy đủ. Thông tin phải đến đúng thời điểm theo cách thức phù hợp với lứa tuổi. Sẽ không ích lợi nếu cứ chất đầy cho chúng các dữ liệu mà không phát triển một ý thức phê bình trước sự xâm lấn của các ý tưởng đề xướng, các văn hóa phẩm khiêu dâm thiếu kiểm soát và sự tràn ngập của các kích thích có thể gây phương hại đến tính dục. Những người trẻ phải có khả năng nhận ra rằng chúng đang bị tấn công dồn dập bởi các thông điệp không mang lại ích lợi gì cho chúng và cho sự trưởng thành của chúng. Cần giúp chúng nhận biết và tìm kiếm những ảnh hưởng tích cực, đồng thời giúp chúng tránh xa tất cả những gì làm biến dạng khả năng yêu thương của chúng. Cũng vậy, chúng ta phải chấp nhận “trước hết cần có một ngôn ngữ mới mẻ và phù hợp hơn để giới thiệu cho trẻ em và thanh thiếu niên về đề tài tính dục”. [302]
282. Nền giáo dục giới tính gìn giữ một cảm thức e thẹn lành mạnh có một giá trị lớn lao, cho dẫu ngày nay một số người cho rằng đó là một điều đã lỗi thời. Đó là sự phòng vệ tự nhiên của một nhân vị bảo vệ cõi riêng tư nội tâm của mình và tránh không để mình biến thành một sự vật đơn thuần bị người khác sử dụng. Nếu không có cảm thức e thẹn, ta có thể giản lược tình cảm và tính dục thành những nỗi ám ảnh chỉ chú ý vào hoạt động sinh dục, thành những bệnh lí làm méo mó khả năng yêu thương của ta và những hình thức khác nhau của bạo lực tình dục dẫn đến việc đối xử phi nhân tính hoặc làm tổn hại những người khác.
283. Thông thường giáo dục giới tính tập trung vào việc kêu gọi người ta “bảo vệ mình” bằng cách tìm thực hành một thứ “tình dục an toàn”. Những lối nói đó truyền đạt một thái độ tiêu cực đối với mục đích sinh sản tự nhiên của tính dục, như thể đứa con có thể có là một kẻ thù phải đề phòng. Như thế là cổ võ thái độ duy kỉ gây hấn thay vì cởi mở đón nhận. Mời gọi thanh thiếu niên đùa bỡn với thân xác và các thèm muốn của mình, như thể chúng đã có sự trưởng thành, các giá trị, sự dấn thân cho nhau và các mục đích riêng của hôn nhân, quả là một điều vô trách nhiệm. Như thế tức là khuyến khích họ vui vẻ sử dụng người khác như một đối tượng trải nghiệm để bù đắp các khiếm khuyết và những giới hạn lớn của mình. Trái lại, điều quan trọng là dạy một khóa học về các biểu hiện khác nhau của tình yêu, về việc chăm sóc lẫn nhau, về sự dịu dàng tôn trọng nhau, về việc thông giao giàu ý nghĩa. Quả thật, tất cả điều này chuẩn bị cho một sự tự hiến hoàn toàn và quảng đại mà họ sẽ bày tỏ, sau một cam kết công khai, qua việc hiến dâng thân xác. Như thế sự kết hợp tính dục trong hôn nhân sẽ thể hiện như dấu chỉ của một sự cam kết toàn vẹn, được làm cho phong phú nhờ cả quá trình đi trước.
284. Không được lừa dối người trẻ khiến họ nhầm lẫn giữa các bình diện: sự hấp dẫn tình dục “nhất thời tạo ra một ảo tưởng của sự nên một, nhưng nếu không có tình yêu thì sự “nên một” này rốt cuộc vẫn để lại tình trạng hai người xa lạ và phân li như trước”. [303] Ngôn ngữ của thân xác đòi hỏi học tập kiên trì để biết diễn giải và phải giáo dục những ham muốn của mình để thật sự tự hiến. Khi người ta tưởng mình trao hiến tất cả ngay lập tức thì rất có thể là người ta không trao hiến gì hết. Một đàng ta hiểu đó là sự mong manh và nhầm lẫn của tuổi trẻ, đàng khác là khuyến khích thanh thiếu niên kéo dài sự ấu trĩ của họ trong cách diễn tả tình yêu. Nhưng, ngày nay ai là người sẽ nói về những điều này? Ai có thể quan tâm đến các bạn trẻ? Ai sẽ giúp họ chuẩn bị một cách nghiêm túc để sống cho một tình yêu cao thượng và quảng đại? Ngày nay người ta quá coi nhẹ việc giáo dục giới tính.
285. Giáo dục giới tính cũng nên bao hàm cả sự tôn trọng và lòng quý trọng sự khác biệt, điều đó thể hiện nơi mỗi người khả năng vượt qua sự khép kín trong những giới hạn của chính mình để mở ra đón nhận người khác. Ngoài những khó khăn có thể hiểu được mà mỗi người có thể gặp phải, người trẻ cần được giúp đỡ để biết chấp nhận thân xác của mình như nó đã được tạo ra, bởi vì “nghĩ rằng mình là chủ nhân tuyệt đối của thân xác mình, sẽ dẫn tới có khi cách tinh vi nghĩ rằng mình cũng là chủ tuyệt đối trên cả tạo thành […]. Quý trọng thân xác mình, là người nam hay là người nữ, cũng cần thiết để có thể nhận ra chính mình trong cuộc gặp gỡ với tha nhân, một người khác với mình. Bằng cách đó, chúng ta có thể vui mừng đón nhận tặng phẩm đặc biệt là tha nhân nam hay nữ kia, vốn là công trình của Thiên Chúa Tạo Hóa, và giúp làm phong phú cho nhau”. [304] Chỉ bằng cách bỏ đi nỗi sợ sự khác biệt người ta mới có thể đạt đến sự giải thoát chính mình để khỏi quy hướng về mình và tìm kiếm chính bản thân. Giáo dục giới tính phải giúp người ta chấp nhận chính thân xác mình, chứ không tìm cách “xóa bỏ sự khác biệt tính dục để rồi không còn biết phải đối diện với nó ra sao”. [305]
286. Người ta cũng không thể không biết rằng cấu trúc hình thành nên hiện hữu của mỗi người, nữ cũng như nam, không chỉ là tập hợp những yếu tố sinh học hay di truyền, mà còn nhiều yếu tố khác liên quan đến tính khí, lịch sử gia đình, văn hóa, kinh nghiệm sống, nền giáo dục ta đã nhận được, những ảnh hưởng của bạn bè, người thân trong gia đình và những người ta ngưỡng mộ, cũng như những hoàn cảnh cụ thể khác đòi hỏi một nỗ lực thích ứng. Quả thực là chúng ta không thể tách rời nam tính và nữ tính ra khỏi công trình tạo dựng của Thiên Chúa, vốn là điều có trước tất cả các quyết định và kinh nghiệm của chúng ta và trong đó có những yếu tố sinh học không thể bỏ qua. Nhưng nam tính và nữ tính đúng là cái gì đó không phải cứng nhắc. Cho nên, cách thể hiện nam tính của người chồng, chẳng hạn, có thể linh động thích ứng với hoàn cảnh công việc của người vợ. Đảm đương việc nhà hoặc một vài công việc chăm sóc con cái không hề làm cho người chồng giảm đi nam tính của mình, cũng không hàm nghĩa đó là một sự thất bại, một sự nhượng bộ hay một điều gì đáng xấu hổ. Chúng ta phải giúp trẻ chấp nhận là bình thường những “hoán đổi” lành mạnh này mà không hề làm giảm sút phẩm giá hình ảnh của người cha. Quan niệm cứng nhắc về nam tính hay nữ tính sẽ trở thành quá đáng, và không giáo dục trẻ em cũng như người trẻ về tính hỗ tương được thâm nhập vào các điều kiện thực tế của hôn nhân. Sự cứng nhắc này, đến lượt nó, có thể cản trở sự phát triển các năng lực của mỗi người, đến mức có thể coi những người nam cống hiến cho nghệ thuật hay khiêu vũ là ít nam tính và những người nữ thi thành nhiệm vụ điều hành thì ít nữ tính. Điều này, cảm ơn Chúa, nay đã thay đổi, nhưng tại một số nơi những quan niệm không phù hợp vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng đến sự tự do chính đáng và làm hư sự phát triển đích thực về căn tính cụ thể của con cái và tiềm năng của chúng.
Thông truyền đức tin
287. Giáo dục con cái phải đi qua một hành trình thông truyền đức tin, một việc trở nên khó khăn do lối sống hiện tại, giờ giấc làm việc, tính phức tạp của thế giới ngày nay, trong đó nhiều người, để tồn tại, phải chịu một nhịp độ điên cuồng. [306] Dù sao, gia đình vẫn phải tiếp tục là nơi học biết những lí lẽ và vẻ đẹp của đức tin, để cầu nguyện và phục vụ tha nhân. Điều này bắt đầu với bí tích Rửa tội, trong đó, như Thánh Augustinô nói, các bà mẹ nuôi dạy con mình là để “cộng tác vào sự sinh hạ thánh thiêng”. [307] Sau đó, khởi sự hành trình tăng trưởng sự sống mới này. Đức tin là một ơn huệ của Thiên Chúa mà ta lãnh nhận trong bí tích Rửa tội, chứ không phải là kết quả của một hành động phàm nhân, tuy nhiên cha mẹ là phương thế Thiên Chúa dùng để giúp cho đức tin của con cái được trưởng thành và phát triển. Bởi thế, “thật tuyệt vời khi các bà mẹ dạy cho con nhỏ của mình làm cử chỉ hôn Chúa Giêsu hay Đức Mẹ. Một cử chỉ dịu dàng tình cảm biết bao! Khi ấy trái tim của con trẻ sẽ trở thành nơi cầu nguyện”. [308] Thông truyền đức tin giả định rằng cha mẹ thực sự sống kinh nghiệm đức tin, tin tưởng vào Chúa, tìm kiếm Ngài, cần đến Ngài, bởi lẽ chỉ bằng cách này “đời nọ tới đời kia, thiên hạ đề cao sự nghiệp Chúa, và truyền tụng những chiến công của Ngài” (Tv 144,4) và “ người cha sẽ dạy cho con cái rõ Ngài là Đấng tín trung” (Is 38,19). Điều này đòi hỏi chúng ta kêu xin Chúa hành động trong tâm hồn của con cái, nơi mà chúng ta không thể chạm đến được. Hạt cải rất bé nhỏ sẽ trở thành một cây lớn (cf. Mt 13,31-32), và như thế chúng ta nhận ra sự không cân đối giữa việc làm và hiệu quả. Bởi thế, chúng ta biết rằng mình không phải là chủ nhân của tặng phẩm nhưng là những người quản lí cần mẫn. Tuy nhiên, nỗ lực sáng tạo của chúng ta là một đóng góp giúp chúng ta cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Vì thế, “phải chăm lo quý trọng các đôi vợ chồng, những người mẹ và những người cha, như những chủ thể tích cực của việc huấn giáo […]. Việc huấn giáo trong gia đình là một trợ lực lớn lao, như một phương pháp hiệu quả nhằm huấn luyện các cha mẹ trẻ và làm cho họ ý thức sứ mạng của mình như là những người loan báo Tin mừng cho chính gia đình mình”. [309]
288. Việc giáo dục đức tin biết thích ứng với mỗi đứa trẻ, bởi vì các phương thế đã học hoặc các công thức đôi khi không còn tác dụng. Trẻ nhỏ cần các biểu tượng, những hành động, và những chuyện kể. Thanh thiếu niên thường dị ứng với uy quyền và các quy tắc, vì thế tốt hơn nên khích lệ kinh nghiệm đức tin cá nhân của các em và cung cấp cho các em những chứng tá sáng ngời nhằm thuyết phục bởi chính vẻ đẹp của những chứng tá ấy. Cha mẹ muốn đồng hành đức tin với con cái mình cần chú ý đến những thay đổi của chúng, vì họ biết rằng kinh nghiệm tâm linh không áp đặt nhưng đề nghị trong sự tự do. Điều quan trọng là con cái nhìn thấy một cách cụ thể đối với cha mẹ chúng việc cầu nguyện thật sự là quan trọng. Bởi thế, những khoảnh khắc cầu nguyện trong gia đình và những diễn tả lòng đạo đức bình dân có thể có sức loan báo Tin mừng mạnh hơn bất kì việc dạy giáo lý và bài giảng đạo nào. Tôi muốn bày tỏ cách đặc biệt lòng biết ơn đến tất cả các bà mẹ không ngừng cầu nguyện, như Thánh nữ Monica, cho những người con của mình đang lạc xa Chúa Kitô.
289. Thực hành việc thông truyền đức tin cho con cái, theo nghĩa tạo thuận lợi cho việc biểu lộ và phát triển đức tin, cho phép gia đình trở thành nhà rao giảng Tin mừng, và một cách tự nhiên gia đình bắt đầu thông truyền đức tin cho mọi người xung quanh, ngay cả những người bên ngoài phạm vi gia đình. Những đứa con lớn lên trong các gia đình truyền giáo thường trở thành những nhà truyền giáo, nếu như cha mẹ biết cách sống sứ vụ này, bằng cách đó người khác cảm thấy họ gần gũi và thân thiện, và như thế con cái lớn lên theo cách tương quan này với thế giới mà không từ bỏ đức tin và những xác tín của mình. Chúng ta nên nhớ rằng chính Đức Giêsu đã ăn uống với những người tội lỗi (cf. Mc 2,16; Mt 11,19), Người đã dừng lại để trò chuyện với người phụ nữ Samaria (cf. Ga 4,7-26), và tiếp chuyện với ông Nicôđêmô vào ban đêm (cf. Ga 3,1-21), Người còn để cho một cô gái điếm xức dầu bàn chân mình (cf. Lc 7,36-50), và đã không ngần ngại đụng chạm các người bệnh (cf. Mc 1,40-45; 7,33). Các Tông đồ của Người cũng làm như vậy, họ không phải là những người xem thường người khác, không khép kín trong những nhóm nhỏ của những người đặc tuyển, tách khỏi cuộc sống của dân chúng. Trong khi chính quyền bách hại họ, họ lại được hưởng lòng yêu mến của toàn dân (cf. Cv 2,47; 4,21.33; 5,13).
290. “Gia đình như thế là chủ thể của hoạt động mục vụ thông qua việc loan báo Tin mừng cách minh nhiên và sự kế thừa đa dạng các hình thức chứng tá như: sự liên đới với những người nghèo, sự đón nhận những con người khác biệt, việc bảo vệ thiên nhiên, sự liên đới tinh thần và vật chất với các gia đình khác, nhất là với những gia đình túng quẫn nhất, việc dấn thân cho sự thăng tiến công ích ngay cả qua việc làm thay đổi những cơ cấu xã hội bất công, bắt đầu từ địa hạt nơi gia đình đang sống, bằng cách thực hành các việc thương xót về phần xác lẫn phần linh hồn”. [310] Điều này phải được đặt trong bối cảnh của niềm xác tín quý giá nhất nơi các Kitô hữu, đó là: tình yêu của Chúa Cha nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta lớn lên, tình yêu ấy được thể hiện trong sự hiến thân trọn vẹn của Đức Giêsu, Đấng đang sống giữa chúng ta, tình yêu ấy làm cho chúng ta có khả năng một lòng một ý đương đầu với mọi bão tố và mọi giai đoạn của cuộc đời. Ngay giữa lòng mỗi gia đình lời loan báo Tin mừng tiên khởi (kerygma) cũng cần phải được vang lên, cả khi thuận lợi cũng như không thuận lợi, để khai sáng cho cuộc hành trình. Khởi đi từ kinh nghiệm sống trong gia đình, mọi người đều có thể thốt lên rằng: “Chúng tôi đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng tôi” (1 Ga 4,16). Chỉ từ kinh nghiệm này, mục vụ gia đình mới có thể giúp các gia đình, vừa là những Hội thánh tại gia vừa là men Phúc âm hóa trong xã hội.
CHƯƠNG VIII – VIỆC ĐỒNG HÀNH, PHÂN ĐỊNH VÀ HỘI NHẬP
NHỮNG HOÀN CẢNH CHÔNG CHÊNH
291. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định cho dẫu Hội thánh nói rằng mọi cắt đứt ràng buộc hôn phối đều “chống lại ý muốn của Thiên Chúa, nhưng cũng ý thức nhiều con cái mình đang sống trong hoàn cảnh chông chênh”. [311] Được soi sáng bởi cái nhìn của Đức Kitô, “Hội thánh thương yêu ghé mắt đến những anh chị em đang tham dự vào đời sống của Hội thánh một cách không trọn vẹn, trong khi nhìn nhận rằng ân sủng của Chúa cũng hoạt động trong cuộc đời của họ bằng cách ban cho họ sức mạnh để làm điều thiện, để chăm sóc cho nhau bằng tình yêu thương và phục vụ cộng đoàn nơi họ sinh sống và làm việc”. [312] Đàng khác, thái độ này được thúc đẩy thêm trong bối cảnh của Năm Thánh dành riêng cho lòng thương xót. Mặc dù Hội thánh luôn đề xướng sự hoàn thiện và mời gọi đáp lại Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn, “Hội thánh cũng phải đồng hành bằng sự ân cần chăm sóc những đứa con yếu đuối nhất của mình, vốn ghi dấu bởi tình yêu bị tổn thương và lạc lối, bằng cách khôi phục lại cho họ niềm tin và hi vọng, như ánh sáng của một ngọn hải đăng hoặc một ngọn đuốc được đặt giữa mọi người hầu soi sáng cho những người đã lầm đường lạc lối hoặc đang ở giữa bão tố cuộc đời”. [313] Chúng ta đừng quên rằng thường công việc của Hội thánh giống như công việc của một bệnh viện dã chiến.
292. Hôn nhân Kitô giáo, phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, được thực hiện một cách trọn vẹn trong sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, họ hiến thân cho nhau trong một tình yêu độc hữu và sự trung thành trong tự do, họ thuộc về nhau cho đến chết và mở ra cho việc truyền sinh, họ được thánh hiến bởi bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội thánh tại gia và men của sự sống mới cho xã hội. Các hình thức kết hợp khác đều hoàn toàn nghịch lại với lí tưởng này, trong khi một số người lại thực hiện lí tưởng này ít là một cách phiến diện hay loại suy. Các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng định rằng Hội thánh không xem nhẹ các yếu tố mang tính xây dựng trong những hoàn cảnh chưa phù hợp hoặc không còn phù hợp với giáo huấn của mình về hôn nhân. [314]
Bài này đã được xem 1167 lần!