Linh đạo của tình yêu tự do và độc hữu
319. Trong hôn nhân người ta còn sống cảm thức hoàn toàn chỉ thuộc về một người duy nhất. Vợ chồng đảm nhận thách đố này và ước nguyện cùng nhau sống cho đến mãn đời, và như thế họ phản ánh lòng trung tín của Thiên Chúa. Xác quyết ấy, vốn định hình một lối sống, là một “đòi hỏi thâm sâu của giao ước tình yêu vợ chồng”, [380] bởi lẽ “người nào không nhất quyết yêu thương mãi mãi thì khó có thể yêu thật lòng dù chỉ một ngày”. [381] Thế nhưng, điều đó có lẽ chẳng có ý nghĩa gì về mặt thiêng liêng, nếu nó chỉ đơn thuần là vấn đề tuân giữ luật với thái độ cam chịu. Đây là chuyện của con tim, nơi chỉ có Thiên Chúa nhìn thấu (cf. Mt 5,28). Mỗi sáng khi thức dậy, chúng ta hãy lặp lại trước mặt Chúa quyết định trung tín này của mình, cho dù có điều gì sẽ xảy ra trong ngày. Và mỗi người, khi đi ngủ, lại mong đợi đến lúc thức dậy để tiếp tục cuộc phiêu lưu này, nhờ tín thác vào sự giúp đỡ của Chúa. Như thế, giữa vợ chồng, người này đối với người kia sẽ là một dấu chỉ và khí cụ của sự gần gũi của Chúa, Đấng không bao giờ để chúng ta đơn độc: “Này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
320. Sẽ đến một lúc mà tình yêu vợ chồng đạt tới đỉnh cao của sự tự do và trở thành một không gian độc lập lành mạnh: khi đó người này khám phá ra người kia không thuộc về riêng mình, mà có một chủ nhân quan trọng hơn rất nhiều, đó là Chúa duy nhất của người ấy. Không ai có thể tham vọng chiếm được nơi thầm kín riêng tư và bí mật nhất của người mình yêu và chỉ có Chúa mới là trung tâm điểm của cuộc sống người ấy. Đồng thời, nguyên tắc duy thực luận thiêng liêng yêu cầu người này đừng đòi người kia phải hoàn toàn thỏa mãn các nhu cầu của mình. Hành trình tâm linh của mỗi người – như Dietrich Bonhoeffer đã diễn tả rất hay – cần giúp mình đạt được sự “vỡ mộng” nào đó liên quan tới người kia, [382] để ngừng kì vọng từ người kia một điều gì đó vốn chỉ thuộc về tình yêu Thiên Chúa mà thôi. Điều này đòi hỏi một sự tự hủy nội tâm. Không gian riêng mà mỗi người dành cho tương quan cá vị với Thiên Chúa không chỉ giúp chữa lành các thương tích của đời sống chung, mà còn giúp người ấy tìm ra ý nghĩa cuộc đời mình trong tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta cần khẩn cầu sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần mỗi ngày để có thể đạt được sự tự do nội tâm này.
Một linh đạo chăm sóc, an ủi và khích lệ
321. “Các đôi vợ chồng Kitô hữu là những cộng tác viên của ân sủng và là những chứng nhân đức tin cho nhau, cho con cái và cho các thành viên khác trong gia đình”. [383] Thiên Chúa mời gọi họ thông truyền và chăm sóc sự sống. Đó là lí do tại sao gia đình “bao giờ cũng là ‘bệnh viện’ gần nhất”. [384] Chúng ta hãy chăm sóc nhau, nâng đỡ nhau và khích lệ nhau, đồng thời hãy sống tất cả những điều này như thành phần linh đạo gia đình của chúng ta. Đời sống của vợ chồng là một sự thông dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và mỗi người – đối với người kia – là một sự gợi ý thường xuyên từ Chúa Thánh Thần. Tình yêu của Thiên Chúa được diễn tả “qua những ngôn từ sống động và cụ thể nhờ đó hai người nam và người nữ diễn tả tình yêu phu phụ của mình”. [385] Như thế hai người phản ánh cho nhau tình yêu thần linh, tình yêu có sức an ủi bằng lời nói, ánh nhìn, bằng sự giúp đỡ, vuốt ve, một vòng tay ôm ấp. Do đó, “ý muốn xây dựng một gia đình là can đảm tham gia vào giấc mơ của Thiên Chúa, dám ước mơ với Ngài, dám xây dựng với Ngài, dám nhập cuộc chơi với Ngài trong lịch sử này, để xây dựng một thế giới trong đó không ai cảm thấy cô đơn”. [386]
322. Toàn bộ đời sống gia đình là một “mục vụ” với lòng thương xót. Mỗi chúng ta, bằng sự chăm sóc, đều khắc họa vào cuộc đời của người khác: “Thư giới thiệu chúng tôi chính là anh em, thư ấy được viết trong tâm hồn chúng tôi […] không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 3,2-3). Mỗi chúng ta là một “ngư phủ chài lưới người” (Lc 5,10), nhân danh Đức Giêsu thả lưới (cf. Lc 5,5) kéo những người khác, hay là một nông dân canh tác mảnh đất tươi tốt đó là những người thân, bằng việc khích lệ những gì tốt nhất trong họ. Sự phong nhiêu của đời sống hôn nhân bao hàm việc thăng tiến người khác, vì “yêu ai là mong đợi nơi người ấy một cái gì đó bất định mà cũng bất ngờ; đồng thời một cách nào đó, tạo điều kiện cho họ đáp lại sự mong đợi này”. [387] Đây là một cách thờ phượng Thiên Chúa, vì Ngài đã gieo rất nhiều điều tốt lành nơi người khác với hi vọng chúng ta sẽ làm cho nó triển nở.
323. Chiêm ngắm từng người thân trong gia đình bằng đôi mắt của Thiên Chúa và nhận ra Đức Kitô nơi họ là một kinh nghiệm tâm linh sâu xa. Điều này đòi hỏi một sự sẵn sàng đáp ứng cách vô cầu giúp ta quý trọng phẩm giá của họ. Người ta chỉ có thể hiện diện trọn vẹn với một người nếu biết hiến thân không vì một lí do nào và quên đi mọi chuyện xảy ra xung quanh. Như thế người được yêu thương là người xứng đáng được quan tâm đầy đủ. Đức Giêsu là mẫu gương về điều này, bởi vì khi bất cứ người nào đến nói chuyện với Người, Người đều chăm chú nhìn và đem lòng yêu thương (cf. Mc 10,21). Không ai cảm thấy bị mất hút khi hiện diện cùng Người, vì những lời nói và cử chỉ của Người thể hiện trong câu hỏi này: “Bạn muốn tôi làm gì cho bạn?” (Mc 10,51). Đây là điều chúng ta kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày của gia đình. Trong đó chúng ta được nhắc nhở rằng mỗi người sống bên ta đều xứng đáng được ta lưu tâm cách tận tình, vì họ có phẩm giá vô hạn vì là đối tượng của tình yêu vô biên của Chúa Cha. Từ đó sẽ nảy sinh sự dịu dàng vốn có thể “khơi lên trong lòng người khác niềm vui cảm thấy mình được yêu thương. Sự dịu dàng được diễn tả một cách đặc biệt trong việc quan tâm cách tinh tế trước những hạn chế của người khác, nhất là khi chúng hiển lộ rõ ràng”. [388]
324. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, gia đình không chỉ đón nhận sự sống bằng cách sinh sản trong phạm vi gia đình, nhưng còn mở ra, đi ra khỏi chính mình để tuôn ban những thiện ích của mình cho người khác và để quan tâm chăm sóc họ và tìm kiếm hạnh phúc cho họ. Sự cởi mở này được thể hiện đặc biệt nơi lòng hiếu khách, [389] như Lời Chúa khơi gợi và khích lệ: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Một khi gia đình rộng mở đón tiếp và đi đến gặp gỡ những người khác, nhất là người nghèo và người bị bỏ rơi, thì đó là “biểu hiệu, chứng từ và là sự tham dự vào thiên chức làm mẹ của Hội thánh”. [390] Bác ái xã hội, một phản ảnh về Thiên Chúa Ba Ngôi, trong thực tế là điều hiệp nhất ý nghĩa thiêng liêng của gia đình và sứ mạng ra khỏi chính mình, vì nó làm cho lời rao giảng tiên khởi (kerygma) hiện diện với tất cả những đòi hỏi mang tính cộng đồng. Gia đình sống linh đạo đặc thù của mình nhờ, cùng lúc, vừa là một Hội thánh tại gia, vừa là một tế bào sống động để biến đổi thế giới. [391]
* * *
325. Không phải tình cờ mà lời dạy của Tôn sư Giêsu (cf. Mt 22,30) và của Thánh Phaolô (cf. 1 Cr 7,29-31) về hôn nhân được đặt trong chiều kích tối hậu và dứt khoát của cuộc sống con người chúng ta, ta cần khám phá lại chiều kích ấy. Với cách ấy các đôi vợ chồng có thể nhận ra được ý nghĩa sâu xa của hành trình đời sống đang diễn ra của mình. Quả thật, như chúng tôi đã đã nhiều lần nhắc đến trong Tông Huấn này, trên thực tế không gia đình nào là hoàn hảo và được kiện toàn một lần dứt khoát; nhưng đòi hỏi một sự phát triển tiệm tiến khả năng yêu thương của mình. Có một tiếng gọi không dứt, phát xuất từ sự hiệp thông viên mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi, từ sự kết hợp kì diệu giữa Đức Kitô và Hội thánh của Người, từ cộng đoàn kiều diễm là Gia đình Nadarét, và từ tình huynh đệ vô tì tích giữa các thánh trên thiên quốc. Tuy nhiên, việc chiêm ngắm sự viên mãn mà chúng ta chưa đạt tới cũng giúp chúng ta biết tương đối hóa trong khi nhìn lại cuộc hành trình lịch sử mà chúng ta đang thực hiện trong tư cách là gia đình, để rồi chúng ta không còn đòi hỏi các mối tương quan liên vị của chúng ta phải hoàn hảo, phải tinh tuyền trong ý hướng, và phải nhất quán – điều mà chúng ta chỉ có thể gặp thấy trong Nước Trời mai sau. Hơn nữa việc ấy cũng ngăn chúng ta không xét đoán khắc nghiệt những ai sống trong các hoàn cảnh chênh vênh. Tất cả chúng ta được mời gọi để tiếp tục phấn đấu hướng đến một cái gì đó lớn lao hơn chính chúng ta và những giới hạn của chúng ta, và mỗi gia đình phải sống thường xuyên sự thôi thúc này. Nào chúng ta cùng đi, hỡi các gia đình, chúng ta hãy tiếp tục tiến bước! Điều chúng ta được hứa hẹn thì luôn cao trọng hơn. Đừng đánh mất niềm hi vọng vì những giới hạn của mình, cũng đừng bao giờ ngừng tìm kiếm sự viên mãn của tình yêu và hiệp thông mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta.
Lời cầu nguyện với Thánh Gia
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse,
nơi các Ngài chúng con chiêm ngắm
vẻ rạng ngời của tình yêu đích thực;
chúng con tin tưởng phó thác nơi các Ngài.
Lạy Thánh Gia Nadarét,
xin cũng làm cho các gia đình chúng con
trở thành nhà của hiệp thông và cầu nguyện,
trở thành trường học đích thực của Tin mừng
và những Hội thánh tại gia nhỏ bé.
Lạy Thánh Gia Nadarét,
xin đừng bao giờ để các gia đình chúng con
xảy ra bạo lực,
khép lòng và chia rẽ;
xin cho tất cả những ai bị tổn thương hay bị xúc phạm
mau tìm được sự an ủi và chữa lành.
Lạy Thánh Gia Nadarét,
xin làm cho mọi người chúng con
ý thức về tính thánh thiêng,
sự bất khả xâm phạm
và vẻ kiều diễm của gia đình
trong chương trình của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse,
xin đoái nghe và nhận lời chúng con cầu khẩn. Amen.
Tại Rôma, Đền thờ Thánh Phêrô, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót,
ngày 19 tháng 3, lễ trọng Thánh Giuse, năm 2016,
năm thứ tư triều Giáo Hoàng của tôi.
PHANXICÔ
* Bản cập nhật có sửa đổi ngày 01/05/2021
Chú thích
[1] RS 2014, 2.
[2] RF 2015, 3.
[3] Diễn từ kết thúc Đại hội thường lệ lần XIV của THĐGM (24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015, tr. 13; Cf. Ủy Ban TT Về Kinh Thánh, Fede e Cultura alla luce della Bibia. Atti della Sessione plenaria 1979 della Pontificia Commissione Biblica, Torino 1981; GS, 44; Gioan Phaolô II, Thđ. Redemptoris Missio (7.12.1990), 52: AAS 83 (1991), 300; EG, 69.117: AAS 105 (2013), 1049.1068-1069.
[4] Phanxicô, Diễn từ tại cuộc gặp gỡ các gia đình tại Santiago, Cuba (22.9.2015): L’Osservatore Romano, 24.9.2015, tr. 7.
[5] Jorge Luis Borges, “Calle desconocida”, in Fervor de Buenos Aires, Buenos Aires 2011, 23.
[6] Phanxicô, Bài giảng trong Thánh lễ tại Puebla de los Angeles (28.01.1979), 2: AAS 71 (1979), 184.
[7] Cf. ibid.
[8] FC, 4: AAS 74 (1982), 84.
[9] RS 2014, 5.
[10] HĐGM TÂY BAN NHA, Matrimonio y familia (6.7.1979), 3.16.23.
[11] RF 2015, 5.
[12] RS 2014, 5.
[13] RF 2015, 8.
[14] Phanxicô, Diễn văn tại Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ (24.9. 2015): L’Osservatore Romano, 26.9.2015, tr. 7.
[15] RF 2015, 29.
[16] RS 2014, 10.
[17] Phanxicô, Đại hội Ngoại thường lần III của THĐGM, Sứ điệp, 18.10.2014.
[18] RS 2014, 10.
[19] RF 2015, 7.
[20] Ibid., 63.
[21] HĐGM Hàn Quốc, Towards a culture of life! (15.3.2007).
[22] RS 2014, 6.
[23] HĐTT Về Gia Đình, Hiến chương về quyền của gia đình (22.10.1983), 11.
[24] Cf. RF 2015, 11-12.
[25] HĐTT Về Gia Đình, Hiến chương về quyền của gia đình (22.10.1983), Dẫn nhập.
[26] Ibid., 9.
[27] RF 2015, 14.
[28] RS 2014, 8.
[29] Cf. RF 2015, 78.
[30] RS 2014, 8.
[31] RF 2015, 23; Cf. Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới về Di dân và Tị nạn 2016 (12.9.2015): L’Osservatore Romano, 2.10.2015, tr. 8.
[32] Ibid., 24.
[33] Ibid., 21.
[34] Ibid., 17.
[35] Ibid., 20.
[36] Cf. ibid., 15.
[37] Phanxicô, Diễn từ kết thúc Đại hội thường lệ lần XIV của THĐGM (24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015, tr. 13.
[38] HĐGM Argentina, Navega mar adentro (31.5.2003), 42.
[39] HĐGM Mexico, Que en Cristo Nuestra Paz México tenga vida digna (15.2.2009), 67.
[40] RF 2015, 25.
[41] Ibid., 10.
[42] HG (22.4.2015): L’Osservatore Romano, 23.4.2015, tr. 7.
[43] HG (29.4.2015): L’Osservatore Romano, 30.4.2015, tr. 8.
[44] RF 2015, 28.
[45] Ibid., 8.
[46] Ibid , 58.
[47] Ibid., 33.
[48] RS 2014, 11.
[49] HĐGM Colombia, A tiempos difíciles, colombianos nuevos (13.2.2003), 3.
[50] EG, 35: AAS 105 (2013), 1034.
[51] Ibid., 164: AAS 105 (2013), 1088.
[52] Ibid.
[53] Ibid., 165: AAS 105 (2013), 1089.
[54] RS 2014, 12.
[55] Ibid., 14.
[56] Ibid., 16.
[57] RF 2015, 41.
[58] Ibid., 38.
[59] RS 2014, 17.
[60] RF 2015, 43.
[61] RS 2014, 18.
[62] Ibid., 19.
[63] RF 2015, 38.
[64] FC, 13: AAS 74 (1982), 94.
[65] RS 2014, 21.
[66] GLHTCG, 1642.
[67] Ibid.
[68] HG (6.5.2015): L’Osservatore Romano (7.5.2015), tr. 8.
[69] Leô CẢ, Epistola Rustico narbonensi episcopo, inquis. IV: PL 54, 1205A; Cf. Incmaro di Reims, Epist. 22: PL 126, 142.
[70] Cf. MCC: AAS 35 (1943), 202: «Matrimonio enim quo coniuges sibi invicem sunt ministri gratiae…»
[71] Cf. GL, cc. 1116; 1161-1165; GLĐP, 832; 848-852.
[72] GL, c. 1055 §2.
[73] RS 2014, 23.
[74] FC, 9: AAS 74 (1982), 90.
[75] RF 2015, 47.
[76] Ibid.
[77] Phanxicô, Bài giảng trong Thánh lễ bế mạc Đại hội Gia đình lần thứ VIII tại Philadelphia (27.9.2015): L’Osservatore Romano, 28-29.9.2015, tr. 7.
[78] RF 2015, 53-54.
[79] Ibid., 51.
[80] GS, 48.
[81] Cf. GL, c. 1055 §1: «Ad bonum coniugum atque ad prolis generationem et educationem ordinatum».
[82] GLHTCG, 2360.
[83] Ibid., 1654.
[84] GS, 48.
[85] GLHTCG, 2366.
[86] Cf. HV, 11-12: AAS 60 (1968), 488-489.
[87] GLHTCG, 2378.
[88] BỘ GLĐT, Chỉ thị Donum vitae (22.2.1987), II, 8: AAS 80 (1988), 97.
[89] RF 2015, 63.
[90] RS 2014, 57.
[91] RS, 58.
[92] RS, 57.
[93] RF 2015, 64.
[94] RS 2014, 60.
[95] Ibid., 61.
[96] GL, c. 1136; Cf. GLĐP, 627.
[97] HĐTT VỀ Gia Đình, Sessualità umana: verità e significato (8.12.1995), 23.
[98] HG (20.5. 2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.
[99] Cf. FC, 38: AAS 74 (1982), 129.
[100] Cf. Phanxicô, Diễn từ tại Đại hội Giáo phận Rôma (14.6.2015): L’Osservatore Romano, 15-16.6.2015, tr. 8.
[101] RS 2014, 23.
[102] RF 2015, 52.
[103] Ibid., 49-50.
[104] GLHTCG, 1641.
[105] Cf. DCE, 2: AAS 98 (2006), 218.
[106] Inhaxiô Loyola, Linh thao, Chiêm ngắm để được tình yêu (Esercizi spirituali, Contemplazione per raggiungere l’amore), 230.
[107] Octavio Paz, La llama doble, Barcelona 1993, 35.
[108] ST II-II, q. 114, a. 2, ad 1.
[109] HG (13.5.2015): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.
[110] ST II-II, q. 27, a. 1, ad 2.
[111] Ibid.,
[112] HG (13.5.2015): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.
[113] FC, 21: AAS 74 (1982), 106.
[114] Martin Luther King Jr., Bài giảng trong Nhà thờ Battista ở Dexter Avenue, Montgomery, Alabama, 17.11.1957.
[115] Thánh Tôma hiểu tình yêu như “sự sống hợp nhất” «vis unitiva» (ST I, q. 20, a. 1, ad 3), theo lối diễn tả của Dionigi Ps.-Areopagita (De divinis nominibus, IV, 12: PG 3, 709).
[116] ST II-II, q. 27, a. 2.
[117] CC: AAS 22 (1930), 547-548.
[118] FC, 13: AAS 74 (1982), 94.
[119] HG (2.4.2014): L’Osservatore Romano, 3.4.2014, tr. 8.
[120] Ibid.
[121] FC, 9: AAS 74 (1982), 90.
[122] Tôma Aquinô, Summa contra Gentiles, III, 123; Cf. Aristotele, Etica Nic., 8, 12 (ed. Bywater, Oxford 1984, 174).
[123] LF, 52: AAS 105 (2013), 590.
[124] Robertô Bellarminô, De sacramento matrimonii, I, 2: in Id. Disputationes, III, 5, 3 (ed. Giuliano, Napoli 1858, 778).
[125] GS, 50.
[126] Ibid., 49.
[127] Cf. ST I-II, q. 31, a. 3, ad 3.
[128] GS, 48.
[129] ST I-II, q. 26, a. 3.
[130] Ibid., 110, a. 1.
[131] Augustinô, Confessioni, VIII, 3, 7: PL 32, 752.
[132] Phanxicô, Diễn từ ngỏ với các gia đình trên thế giới nhân dịp hành hương Rôma trong Năm Đức tin (26.10.2013): AAS 105 (2013), 980.
Bài này đã được xem 1171 lần!