[133] Phanxicô, Buổi đọc Kinh Truyền Tin (29.12.2013): L’Osservatore Romano, 30-31.12.2013, tr. 7.
[134] Phanxicô, Diễn từ ngỏ với các gia đình trên thế giới nhân dịp hành hương Rôma trong Năm Đức tin (26.10.2013): AAS 105 (2013), 978.
[135] ST II-II, q. 24, a. 7.
[136] GS, 48.
[137] HĐGM Chilê, La vida y la familia: regalos de Dios para cada uno de nosotros (21.7.2014).
[138] GS, 49.
[139] A. Sertillanges, L’amour chrétien, Paris 1920, 174.
[140] Cf. ST I-II, q. 24, a. 1.
[141] Cf. Ibid., q. 59, a. 5.
[142] DCE, 3: AAS 98 (2006), 219-220.
[143] Ibid., 4 : AAS 98 (2006), 220.
[144] Cf. ST I-II, q. 32, a. 7.
[145] Cf. ST, II-II, q. 153, a. 2, ad 2: «Abundantia delectationis quae est in actu venereo secundum rationem ordinato, non contrariatur medio virtutis».
[146] HG (22.10.1980), 5: Insegnamenti III, 2 (1980), 951.
[147] Ibid., 3: Insegnamenti III, 2 (1980), 951.
[148] HG (24.9.1980), 4: Insegnamenti III, 2 (1980), 719.
[149] HG (12.11.1980), 2: Insegnamenti III, 2 (1980), 1133.
[150] Ibid., 4.
[151] Ibid., 5.
[152] Ibid., 1: 1132.
[153] HG (16.01.1980), 1: Insegnamenti III, 1 (1980), 151.
[154] Josef Pieper, Über die Liebe, München 2014, 174.
[155] EV, 23: AAS 87 (1995), 427.
[156] HV, 13: AAS 60 (1968), 489.
[157] GS, 49.
[158] HG (18.6.1980), 5: Insegnamenti III, 1 (1980), 1778.
[159] Ibid., 6.
[160] Cf. ibid. (30.7.1980), 1: Insegnamenti III, 2 (1980), 311.
[161] Ibid. (8.4.1981), 3: Insegnamenti IV, 1 (1981), 904.
[162] Ibid. (11.8.1982), 4: Insegnamenti V, 3 (1982), 205-206.
[163] DCE, 5: AAS 98 (2006), 221.
[164] Ibid., 7.
[165] RF 2015, 22.
[166] HG (14.4.1982), 1: Insegnamenti V, 1 (1982), 1176.
[167] Alessandro di Hales, Glossa in quatuor libros sententiarum Petri Lombardi, IV, XXVI, 2 (Quaracchi 1957, 446).
[168] HG (7.4.1982), 2: Insegnamenti V, 1 (1982), 1127.
[169] Ibid. (14.4.1982), 3: Insegnamenti V, 1 (1982), 1177.
[170] Ibid.,
[171] RH, 10: AAS 71 (1979), 274.
[172] Cf. ST II-II, q. 27, a. 1.
[173] HĐTT VỀ Gia Đình , Famiglia, matrimonio e “unioni di fatto” (26.7.2000), 40.
[174] HG (31.10.1984), 6: Insegnamenti VII, 2 (1984), 1072.
[175] DCE, 8: AAS 98 (2006), 224.
[176] FC, 14: AAS 74 (1982), 96.
[177] HG (11.02.2015): L’Osservatore Romano, 12.02.2015, tr. 8.
[178] Ibid.
[179] HG (8.4.2015): L’Osservatore Romano, 9.4.2015, tr. 8.
[180] Ibid.
[181] Cf. GS, 51: “Tất cả chúng ta hãy xác tín rằng sự sống con người và sự thông truyền sự sống ấy là những thực tại mà ý nghĩa của chúng không chỉ bị giới hạn bởi những chân trời của cuộc sống này: giá trị đích thực và ý nghĩa đầy đủ của chúng chỉ có thể được hiểu trong qui chiếu đến vận mệnh vĩnh cửu của chúng ta mà thôi”.
[182] Phanxicô, Thư gửi Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc về Dân Số và Phát Triển (18.03.1994): Insegnamenti XVII/1 (1994), 750-751.
[183] HG (12.3.1980), 3: Insegnamenti III/1 (1980), 543.
[184] Ibid.
[185] Phanxicô, Diễn từ tại Cuộc Gặp Gỡ các Gia Đình ở Manila (16.01.2015): AAS 107 (2015), 176.
[186] HG (11.02.2015): L’Osservatore Romano, 12.02.2015, tr. 8.
[187] HG (14.10.2015): L’Osservatore Romano, 15.10.2015, tr. 8.
[188] HĐGM Úc Châu Thư mục vụ Don’t Mess with Marriage (24.11.2015), 11.
[189] GS, 50.
[190] HG (12.3.1980), 2: Insegnamenti III/1 (1980), 542.
[191] Cf. Id.,Tông thư Mulieris Dignitatem (15.8.1988), 30-31: AAS 80 (1988), 1727-1729.
[192] HG (7.01.2015): L’Osservatore Romano, 7-8.01.2015, tr. 8.
[193] Ibid.
[194] HG (28.01.2015): L’Osservatore Romano, 29.01.2015, tr. 8.
[195] Ibid.
[196] Cf. RF 2015, 28.
[197] HG (4.02.2015), L’Osservatore Romano, 5.02.2015, tr. 8.
[198] Ibid.
[199] GS, 50.
[200] Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ V HĐGM Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, Documento di Aparecida (29.6.2007), 457.
[201] RF 2015, 65.
[202] Ibid.
[203] Phanxicô, Diễn từ tại cuộc Hội Ngộ các Gia đình ở Manila (16.01.2015): AAS 107 (2015), 178.
[204] Mario Benedetti, “Te quiero”, in Poemas de otros, Buenos Aires 1993, 316.
[205] Cf. HG (16.9.2015): L’Osservatore Romano, 17.9.2015, tr. 8.
[206] HG (7.10.2015): L’Osservatore Romano, 9.10.2015, tr. 8.
[207] DCE, 14: AAS 98 (2006), 228.
[208] Cf. RF 2015, 11.
[209] HG (18.3.2015): L’Osservatore Romano, 19.3.2015, tr. 8.
[210] HG (11.01.2015): L’Osservatore Romano, 12.02.2015, tr. 8.
[211] Cf. RF 2015, 17-18.
[212] HG (4.3.2015): L’Osservatore Romano, 5.3.2015, tr. 8.
[213] HG (11.3.2015): L’Osservatore Romano, 12 .3.2015, tr. 8.
[214] FC 27: AAS 74 (1982), 113.
[215] Gioan Phaolô II, Diễn từ nói với các tham dự viên tại “Diễn đàn quốc tế về sống tuổi già tích cực” (5.9.1980), 5: Insegnamenti III/2 (1980), 539.
[216] RF 2015, 18.
[217] HG (4.3.2015): L’Osservatore Romano, 5.3.2015, tr. 8.
[218] Ibid.
[219] Phanxicô, Diễn từ tại cuộc Hội ngộ với người Cao tuổi (28.9.2014): L’Osservatore Romano, 29-30.9.2014, tr. 7.
[220] HG (18.02.2015): L’Osservatore Romano, 19.01.2015, tr. 8.
[221] Ibid.
[222] Ibid.
[223] FC, 18: AAS 74 (1982), 101.
[224] HG (7.10.2015): L’Osservatore Romano, 8.10.2015, tr. 8.
[225] RS 2014, 30.
[226] Ibid., 31.
[227] RF 2015, 56.
[228] Ibid., 89.
[229] RS 2014, 32.
[230] Ibid., 33.
[231] Ibid., 38.
[232] RF 2015, 77.
[233] Ibid., 61.
[234] Ibid.
[235] Ibid.
[236] Ibid.
[237] Cf. RS 2014, 26.
[238] Ibid., 39.
[239] HĐGM Ý, Ủy Ban Giám mục về Gia Đình và SỰ SỐng, Orientamenti pastorali sulla preparazione al matrimonio e alla famiglia (Những định hướng mục vụ cho việc chuẩn bị hôn nhân và đời sống gia đình) (22.10.2012), 1.
[240] Inhaxiô Loyola, Linh Thao, Chú thích 2.
[241] Ibid., Chú thích 5.
[242] HG (27.6.1984), 4: Insegnamenti VII/1 (1984), 1941.
[243] HG (21.10.2015): L’Osservatore Romano, 22.10.2015, tr. 12.
[244] HĐGM Kênya, Sứ Điệp Mùa Chay (18.02.2015).
[245] Cf. CC (31.12.1930): AAS 22 (1930), 583.
[246] HG (4.7.1984), 3, 6: Insegnamenti VII/2 (1984), tr. 9, 10.
[247] RF 2015, 59.
[248] Ibid., 63.
[249] GS, 50.
[250] RF 2015, 63.
[251] RS 2014, 40.
[252] Ibid., 34.
[253] Gioan Thánh Giá, Cantico Spirituale (Khúc Linh Ca) B, XXV, 11.
[254] RS 2014, 44.
[255] RF 2015, 81.
[256] Ibid., 78.
[257] HG (24.6.2015): L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr. 8.
[258] FC, 83: AAS 74 (1982), 184.
[259] RS 2014, 47.
[260] Ibid., 50.
[261] Cf. HG (5.8.2015): L’Osservatore Romano, 6.8.2015, tr. 7.
[262] RS 2014, 51; cf. RF 2015, 84.
[263] RS 2014, 48.
[264] Phanxicô, Tự Sắc Mitis Iudex Dominus Iesus (15.8.2015): L’Osservatore Romano, 9.9.2015, tr. 3-4; cf. Phanxicô, Tự Sắc Mitis et Misericors Iesus (15.8.2015): L’Osservatore Romano, 9.9.2015, tr. 5-6.
[265] Phanxicô, Tự Sắc Mitis Iudex Dominus Iesus (15.8.2015), Lời nói đầu, III: L’Osservatore Romano, 9.9.2015, tr. 3.
[266] RF 2015, 82.
[267] RS 2014, 47.
[268] HG (20.5.2015): L‘Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.
[269] HG (24.6.2015): L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr. 8.
[270] HG (5.8.2015): L’Osservatore Romano, 6.8.2015, tr. 7.
[271] RF 2015, 72.
[272] Ibid., 73.
[273] Ibid., 74.
[274] Ibid., 75.
[275] Cf. MV, 12: AAS 107 (2015), 407.
[276] GLHTCG, 2358; cf. RF 2015, 76.
[277] Cf. Ibid.
[278] RF 2015, 76; cf. BỘ GLĐT, Considerazioni circa i progetti di riconoscimento legale delle unioni tra persone omosessuali (3.6.2003), 4.
[279] RF 2015, 80.
[280] Cf. RF 2015, 20.
[281] HG (17.6.2015): L’Osservatore Romano, 18.6.2015, tr. 8.
[282] RF 2015, 19.
[283] HG (17.6.2015): L’Osservatore Romano, 18.6.2015, tr. 8.
[284] Ibid.
[285] Cf. GLHTCG, 958.
[286] Ibid.
[287] Cf. Têrêsa Lisieux, Những cuộc nói chuyện cuối cùng: Cuốn “sổ màu vàng” của Mẹ Agnès, 17.7.1897, trong Opere complete, Città del Vaticano – Roma 1997, 1028. Về việc này thật ý nghĩa đó là chứng từ của các chị em Cát minh của Thánh nữ nói về một lời hứa của Têrêsa rằng sự kiện từ trần của ngài sẽ “giống như cơn mưa hoa hồng” (ibid., 9.6.1897, 991).
[288] Cf. Giordano di Sassonia, Libellus de principiis Ordinis prædicatorum, 93: Monumenta Historica Sancti Patris Nostri Dominici, XVI, Roma 1935, 69.
[289] Cf. GLHTCG, 957.
[290] LG, 49.
[291] EG, 222: AAS 105 (2013), 1111.
[292] HG (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.
[293] GS, 17.
[294] HG (30.9.2015): L’Osservatore Romano, 1.10.2015, tr. 8.
[295] HG (10.6.2015): L’Osservatore Romano, 11.6.2015, tr. 8.
[296] Cf. RF 2015, 67.
[297] HG (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.
[298] HG (9.9.2015): L’Osservatore Romano, 10.9.2015, tr. 8.
[299] RF 2015, 68.
[300] Ibid., 58.
[301] CĐ Vatican II, Tuyên Ngôn Gravissimum Educationis về Giáo Dục Công Giáo, 1.
[302] RF 2015, 56.
[303] Erich Fromm, The Art of Loving, New York, 1956, tr. 54.
[304] LS, 155.
[305] HG (15.4.2015): L’Osservatore Romano, 16.4.2015, tr. 8.
[306] Cf. RF 2015, 13-14.
[307] Augustino, De sancta virginitate 7,7: PL 40, 400.
[308] HG (26.8.2015): L’Osservatore Romano, 27.8.2015, tr. 8.
[309] Ibid., 89.
[310] Ibid., 93.
[311] RS 2014, 24.
[312] Ibid., 25.
[313] Ibid., 28.
[314] Cf. Ibid., 41.43; RF 2015, 70.
[315] RS 2014, 27.
[316] Ibid., 26.
[317] Ibid., 41.
[318] Ibid., 41.
[319] RF 2015, 71.
[320] Cf. Ibid., 71.
[321] RS 2014, 42.
[322] Ibid., 43.
[323] FC, 34: AAS 74 (1982), 123.
[324] Ibid., 9: AAS 74 (1982), 90.
[325] Cf. HG (24.6.2015): L’Osservatore Romano, 25.6.2015, tr. 8.
[326] Bài giảng trong Thánh Lễ cử hành với các Hồng y mới (15.2.2015): AAS 107 (2015), 257.
[327] RF 2015, 51.
[328] RS 2014, 25.
[329] FC, 84: AAS 74 (1982), 186. Trong những trường hợp như thế, nhiều người, biết và chấp nhận khả năng sống “như anh em” mà Hội thánh đề nghị, chỉ ra rằng nếu thiếu đi một số sự diễn tả mật thiết, “thì sự trung thành thường bị lâm nguy và thiện ích của con cái bị ảnh hưởng” (GS, 51).
[330] Ibid.
[331] RS 2014, 26.
[332] Cf. Ibid., 45.
[333] BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ tại Đại hội Các Gia Đình Thế Giới Lần Thứ Bảy ở Milan (2.6.2012), Câu trả lời số 5: Insegnamenti VIII/1 (2012), 691.
[334] RF 2015, 84.
[335] Ibid., 51.
[336] Đây cũng là trường hợp liên quan tới kỷ luật bí tích, vì sự phân định có thể nhận ra rằng trong một hoàn cảnh riêng, không có tồn tại lỗi phạm nặng nề nào. Trong những trường hợp như thế, sẽ áp dụng điều được nói trong một văn kiện khác: cf. Evangelii Gaudium (24.11.2013), 44 và 47: AAS 105 (2013), 1038-1040.
[337] RF 2015, 85.
[338] Ibid., 86.
[339] FC, 33: AAS 74 (1982), 121.
[340] RF 2015, 51.
[341] Cf. ST I-II, q. 65, a. 3, ad 2; De malo, q. 2, a. 2.
[342] Ibid., ad 3.
[343] GLHTCG, 1735.
[344] Cf. Ibid. 2352; BỘ GLĐT, Tuyên Ngôn Iura et bona về Cái Chết Êm Dịu (5.5.1980), II: AAS 72 (1980), 546; Gioan Phaolô II, khi phê bình về phạm trù “sự chọn lựa nền tảng”, đã nhìn nhận rằng “chắc chắn có thể xảy ra những hoàn cảnh rất phức tạp và mập mờ từ một quan điểm tâm lí học, và những hoàn cảnh ấy có một ảnh hưởng đến việc qui trách chủ quan của tội nhân” (Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia [2.12.1984], 17: AAS 77 [1985], 223).
[345] Cf. HĐTT VỀ CÁC BẢN VĂN LUẬT, Tuyên bố về việc Đón nhận các tín hữu li dị và tái hôn vào việc rước lễ (24.6.2000), 2.
[346] RF 2015, 85.
[347] ST I-II, q. 94, art. 4.
[348] Khi qui chiếu đến sự hiểu biết tổng quát về luật và sự hiểu biết đặc thù của sự phân định thực tế, Thánh Tôma đi đến khẳng định rằng “nếu chỉ có một trong hai sự hiểu biết ấy, thì tốt hơn nếu đó là sự hiểu biết về thực tế cụ thể, bởi lẽ nó gần với hành động hơn” (Sententia libri Ethicorum, VI, 6 [ed. Leonina, t. XLVII, 354]).
[349] Diễn từ Bế mạc Đại hội thường kì lần XIV của THĐGM (24.10.2015): L’Osservatore Romano, 26-27.10.2015, tr. 13.
[350] Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Tìm kiếm một nền đạo đức phổ quát: một cái nhìn mới về Luật Tự Nhiên (2009), 59.
[351] Trong một số trường hợp, điều này có thể bao gồm sự trợ giúp của các bí tích. Vì thế, “tôi muốn nhắc các linh mục rằng tòa giải tội không phải là một buồng tra tấn, nhưng đúng hơn là một nơi gặp gỡ lòng thương xót của Chúa” (EG, 44: AAS 105 [2013], 1038). Tôi cũng muốn lưu ý rằng Bí tích Thánh Thể không phải là một phần thưởng cho người hoàn hảo, nhưng là phương dược đầy hiệu năng và là lương thực dưỡng nuôi cho người yếu đuối” (ibid., 47: 1039).
[352] EG, 44: AAS 105 (2013), 1038-1039.
[353] De Catechizandis Rudibus, I, 14, 22: PL 40, 327; cf. EG, 194: AAS 105 (2013), 1101.
[354] RS 2014, 26.
[355] EG, 44: AAS 105 (2013), 1038.
[356] Ibid., 45: AAS 105 (2013), 1039.
[357] Ibid., 270: AAS 105 (2013).
[358] MV, 12: AAS 107 (2015): 407.
[359] Ibid., 5: AAS 107 (2015): 402.
[360] Ibid., 9: AAS 107 (2015): 405.
[361] Ibid., 10: AAS 107 (2015): 406.
[362] EG, 47: AAS 105 (2013), 1040.
[363] Cf. Ibid., 36-37: AAS 105 (2013), 1035.
[364] Có lẽ do quá thận trọng chi li, ẩn sau một ước muốn mạnh mẽ trung thành với sự thật, một số linh mục đòi hỏi các hối nhân một quyết tâm sửa chữa rất thiếu tế nhị, đến nỗi làm cho lòng thương xót bị che mờ bởi việc theo đuổi một công lí được coi là thuần túy. Vì thế, sẽ hữu ích việc nhắc lại giáo huấn của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi ngài tuyên bố rằng khả năng của một sự sa ngã mới “không nên làm người ta nghi ngờ sự chân thực của lòng quyết tâm” (Thư gửi Hồng y William W. Baum dịp tổ chức khóa về Tòa Trong [22.3.1996], 5: Insegnamenti XIX/1 [1996], 589).
[365] ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, La Speranza della salvezza per i bambini che muoiono senza battesimo (19.4.2007), 2.
[366] MV, 15: AAS 107 (2015), 409.
[367]AA, 4.
[368] Cf. Ibid.
[369] GS, 49.
[370] DCE, 16: AAS 98 (2006), 230.
[371] Ibid., 250.
[372] Gioan Phaolô II, Th. Christifideles Laici (30.12.1988), 40: AAS 81 (1989), 468.
[373] Ibid.
[374] RF 2015, 87.
[375] Gioan Phaolô II, Th. Vita Consecrata (25.3.1996), 42: AAS 88 (1996), 416.
[376] Cf. RF 2015, 87.
[377] FC, 57: AAS 74 (1982), 150.
[378] Chúng ta cũng không được quên rằng giao ước của Thiên Chúa với dân Ngài được diễn tả như một sự đính hôn (Cf. Ed 16,8. 60; Is 62,5; Hs 2,21-22), và giao ước mới cũng được trình bày như một hôn ước (Cf. Kh 19,7; 21,2; Ep 5,25).
[379] LG, 11.
[380] FC, 11: AAS 74 (1982), 93.
[381] Gioan Phaolô II, Bài giảng trong Thánh Lễ với Các Gia Đình, Cordoba, Argentina (8.4.1987), 4: Insegnamenti X/1 (1987), 1161-1162.
[382] Cf. Dietrich Bonhoeffer, Gemeinsames Leben, Munich, 1973, tr. 18.
[383] AA, 11.
[384] HG (10.6.2015): L’Osservatore Romano, 11.6.2015, tr. 8.
[385] FC, 12: AAS 74 (1982), 93.
[386] Diễn từ tại buổi Canh Thức Đại Hội Các Gia Đình, Philadelphia (26.9.2015): L’Osservatore Romano, 28-29.9.2015, tr. 6.
[387] Gabriel Marcel, Homo Viator: prolégomènes à une métaphysique de l’espérance, Paris, 1944, tr. 66. Anh ngữ: Homo Viator. Dẫn nhập vào một Siêu hình học về Hi Vọng, London, 1951, tr. 49.
[388] RF 2015, 88.
[389] Cf. FC, 44: AAS 74 (1982), 136.
[390] Ibid., 49: AAS 74 (1982), 141.
[391] Về những khía cạnh xã hội của gia đình, Cf. HĐTT VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tóm lược Học Thuyết Xã hội của Giáo hội Công Giáo, 248-254.
………………….
Bài này đã được xem 1153 lần!